Chương XII
Kiều của NGUYỄN DU (1766-1820)
Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt
thời đại bằng tư duy của mình, mà còn giúp con ngời nơi cõi nầy đụng chạm đến vô
tận.
Vì
thế tự căn nét siêu việt trong tác phẩm và nơi cuộc sống người ấy cống hiến một tấm gương
soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong toàn thể nhân loại.[1]
Vì là lời được cảm
hứng, thi phẩm đó ở bên kia bờ của việc mô tả hay biện minh cho một
thời đại hay một xã hội nào bất kỳ. Lời ấy không bị ràng buộc bởi những định
chế và các giá trị đang chi phối nếp suy tư của xã hội, nhưng đặt vấn đề về
ngay chính nền tảng của chúng nhân danh một quyền uy khác hơn quyền uy đương
đại, đó là quyền uy của sự thật, của ý nghĩa về nhân tính con người. Vì vậy lời
được cảm hứng không quan tâm đến việc mô tả những thực tại xã hội,
những tập tục của một cộng đòan, những sáng kiến, giấc mơ hay tình cảm của một
nhân vật. Nhưng đưa tòan bộ thực tại con người, kể cả những nền tảng và định
chế xã hội, trực diện với một câu chất vấn duy nhất và căn đế : chất vấn
về ý nghĩa của nhân tính.
Con người là vấn
nạn cho chính mình,
đó là một câu chất vấn duy nhất gợi hứng cho đạo lý các thánh hiền, cho minh
triết của những nhà tư tưởng đi tiên
phong trong các nền văn hoá khác nhau của nhân lọai
Khi tiếp cận được lời thi ca, cảm hứng được câu
chất vấn đến từ bờ bên kia, - lời vượt
lên trên những kiến thức giới hạn của con người-, các thánh hiền và các nhà tư
tưởng chạm đến con tim con người bất cứ nơi đâu và bất cứ thời đại nào. Sứ điệp
của họ được tiếp nhận như là gia sản văn
hóa đối với toàn thể nhân loại và đi vào Đại Ký Ức của các dân tộc.
Nếu gia sản văn hoá
của nhân loại không chuyển đạt điều gì khác hơn là ý nghĩa về nhân tính, thì sứ
điệp văn hóa ấy cũng hé lộ cho thấy thân phận con người tự căn vốn kỳ lạ và mâu
thuẫn. Nét kỳ lạ ấy là dấu chỉ linh ư vạn
vật của nhân tính buộc con người phải dấn thân vào Cuộc Chiến bi thảm,
nhưng hào hùng để có thể chu tòan Mệnh
làm người của mình.
Dưới ánh sáng của lời
được cảm hứng từ bên kia bờ, Cuộc Chiến
ngoại thường nầy [thánh hiền trong văn hóa Hy Lạp gọi là Khôn Ngoan về
nhân tính (άνθρωπίνη σοφία)[4]
hay Đức Lý (Ήθος)] vượt lên trên các hình thái đối nghịch
của vũ trụ, trên các biện chứng tư duy và tranh chấp xã hội, trên mọi hình thức
tự phủ định ý chí muốn sống hay con đường khổ hạnh để tu thân… Cuộc Chiến ngoại thường nầy là :
·
Cuộc Chiến giữa Đạo sâu
kín, chân thực, đối nghịch với những đạo
giả tạo do trí năng vạch ra (xem Đạo Đức Kinh của Lão-tử, quyển 1,
chương 1).
·
Cuộc Chiến giữa một nhân tính đặt
nền tảng trên Ngã đơn độc, tự mãn bên
nầy bờ của bến mê và một nhân tính đích thực (Phi Ngã) bên kia bờ
của Ngã mê lầm đó, trong đạo lý
Phật giáo.
·
Cuộc Chiến giữa Vương Đ ạo của chính nhân quân tử
và Bá Đạo của tiểu nhân, theo Khổng giáo.
·
Cuộc Chiến giữa Tài (Τέχνη) và Mệnh
(Μοίρα) trong Bi Triết của Hy Lạp
(đặc biệt trong Prométhée bị trói của
Eschyle và trong Œdipe-Vua của
Sophocle:
“Cuộc chiến vinh quang mang nguồn
sinh lưc cho quê hương, xin Trời đừng dẹp tắt.”[6]
·
Cuộc Chiến (Πόλεμος) giữa Lời siêu việt (Λόγος ) và lý
lẽ con người trong tư tưởng của Héraclite.
·
Cuộc
Chiến giữa một bên là Đạo Công Chính và Chân Lý[7], – Đạo được linh hứng bởi Thần Khí và được hướng dẫn bởi những ái
nữ của Thần Mặt Trời –, và bên kia là con đường bế tắc của mê lầm mà mọi
người đang đi, không trừ một ai[8] trong
Thi Ca của Parménide.
·
Cuộc Chiến mà Socrate là một chứng
tá sống động trong cuộc sống, trong cái chết bi thương nhưng vinh quang, trong
lời giáo huấn ngược đời của ông.
·
Cuộc Chiến giữa nhân tính đặt nền
tảng trên (Tài), trí năng đo lường các sự vật trong vũ
trụ, và một nhân tính khác được cảm hứng bởi « Lý của Con
Tim » (Đạo Tâm) trong tư tưởng
Pascal...
Chính cuộc chiến đấu bi hùng đó đã khơi nguồn cảm hứng
cho tư tưởng gia-thi sĩ Nguyễn Du và được diễn đạt qua hai câu thơ đầu tiên của
truyện Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau (Kiều, c. 1-2)
Toàn bộ thi phẩm Kiều là một sự triển khai trực giác độc
đáo nầy.
Nhân vật Kiều thể hiện cuộc chiến giữa hai căn tính con
người, một căn tính đặt nền tảng trên chữ Tài và căn tính kia trên chữ Mệnh,
ở ngay giữa cuộc sống.
Lời thi ca nơi Âm vọng Khổ Đau từ bờ bên kia (qua bóng dáng Đạm Tiên) thức tỉnh Kiều nhận ra một Kiều hồng nhan gắn liền với Nghiệp (Tài),
và một Kiều chân thực bên trong (thanh
cao) của Mệnh mà Giác Duyên sẽ
cống hiến, sau cái chết rốt ráo của Nghiệp
nơi sông Tiền-Đường, giao thoa giữa Tài và Mệnh.
Con đường của Tài
xuyên qua những hình ảnh tượng trưng như :
-
Sự tự vẫn : con đường vô
sinh, vô cảm.
-
Thúc Sinh – biểu tượng cho khóai lạc cá
nhân và lòng trắc ẩn thường tình.
- Con đường khắc kỷ ở trong một am
thất,
- Từ Hải – biểu tượng sự giải phóng xã hội...
Nhưng những con đường giải thoát của Tài đều bế tắc.
Tuy nhiên Lời từ bên kia bờ
không ngừng âm thầm nhắc rằng thế
giới Ảo-tưởng của Tài sẽ tàn,
và Con Đường khác của Mệnh sẽ hé lộ nhờ Giác Duyên :
-
Đạo
của Mệnh, Đạo-Tâm tuyệt đối ở bên kia bờ của Tài và đòi hỏi cái chết tận căn của Tài (Kiều hồng nhan phải chết
trên sông Tiền Đường để sống lại Kiều Giác Duyên).
-
Đạo
của Chữ Tâm là Đạo duy nhất của sự cứu rỗi, Đạo tuyệt hảo (Chữ Tâm kia mới
bằng ba chữ Tài). (Kiều c.3252).
Từ hai thế kỷ nay, thi phẩm Kiều của Nguyễn Du đã cảm
hứng tâm hồn và qui hợp con dân Việt-nam. Trong tương lai, hội ngộ nguồn cảm
hứng tư tưởng thi ca của nhân lọai, thi phẩm Kiều hẳn sẽ cống hiến cho mọi dân
tộc trên thế giới một lời mời gọi cấp bách để có thể nhận ra bí nhiệm vô tận,
đó chính là CON NGƯỜI.
*
2-.
Một bí ẩn từ Truyện Kiều của Nguyễn Du
Trong gần hai thế kỷ, Truyện Kiều của Nguyễn Du đi vào Đại
Ký Ức của người Việt. Mỗi người, mỗi
sinh hoạt tiếp nhận những lời thơ Kiều như một nguồn cảm hứng, một kho tàng tài
liệu hay một lời biện minh.
Nguồn sinh lực của
Truyện Kiều khó mà cạn, vì đây là một lời thơ, một lời cảm hứng đến từ ‘Vô
Phương’ bên kia bờ của không gian và lịch sử. Tuy nhiên điều đáng làm cho chúng
ta hôm nay ngạc nhiên, đó là qua gần hai trăm năm, nguồn cảm hứng đến với
Truyện Kiều của Nguyễn Du, nguồn cảm hứng còn được gọi là Lời-Mới-Làm-Đứt-Ruột
- Đoạn Trường Tân Thanh - mà Đạm Tiên là hiện thân làm sứ giả truyền đạt cho
Kiều, nguồn cảm hứng kỳ lạ ấy dường như không một bậc thức giả nào lưu ý. Mà
nếu có nhắc đến, thì người ta cũng chỉ biết lặp lại lời của Vương Quan[9],
một con người ở-bên-ngoài cảm thức của nỗi-đau-làm-người mà Nguyễn
Du muốn truyền đạt qua nhân vật Kiều.
Trong Truyện Kiều, người nghe được từ miệng Đạm Tiên lời
làm đứt ruột nhắc nhở ý nghĩa làm người, người hoàn thành cái chết của thế giới
mê lầm do Tài đã được Đạm Tiên loan báo, người nhận ra Đạm Tiên là lời cứu độ
khi gián tiếp cho hay Đạm Tiên cũng là Giác Duyên, người duy nhất ấy trong
truyện Kiều không ai khác hơn là Kiều, kẻ hữu-tình-ta-lại-gặp-ta[10] với
Đạm Tiên.
Thế nhưng, Đạm Tiên, lời làm cho cổ nhân bên kia bờ miệt
mài say đắm[11], nay con người bên
nầy bờ đã đẩy lui vào dĩ vãng xa xăm, nếu không nói là đã biến lời âm thầm
làm đứt ruột nầy - lời của lương tri,
lời đạo nghĩa - thành một con điếm, một
nấm mộ bị lãng quên bên lề đường.
Hai trăm năm ca tụng mối tình Kim Trọng-Thúy Kiều đến độ
quên tương-giao-hữu-tình-bên-trong giữa Đạm Tiên và Kiều ; hai trăm năm
tôn vinh Từ Hải hiệp nghĩa giang hồ khí phách đến độ quên đi cuộc-vượt-qua uy
dũng từ cõi chết của Tài đến ơn cứu độ của Mệnh! Phải chăng hai trăm năm đó cũng là nghiệp
quên lãng của phận làm người ‘đã
mang lấy nghiệp vào thân’ (Kiều,
c. 3249) !
Trước bỉ ẩn lịch sử nầy, thử hỏi có lời nào của Đạm Tiên
giúp ta nêu lên hai vấn nạn nầy :
-
Kiều là gia sản văn hóa của dân
Việt Nam và của nhân loại, phải chăng chỉ vì Nguyễn Du có công chọn được một
truyện tình cảm xã hội của một tác giả người Tàu và đã chuyển được qua tiếng
Việt một cách hết sức văn chương?
-
Hay đã đến lúc chúng ta lại cần
một « lới mới làm đứt ruột »
để đọc lại Truyện Kiều và tiếp nhận được sứ điệp tư tưởng của nhà văn hóa
Nguyễn Du ?
[1]Karl JASPERS, Les grands philosophes, tome 1, trad. C.
Floquet et autres, Plon, Paris ,
1989, tr.36.
[2] Đoạn nầy là phần tóm
lược bài chia sẻ về Văn hóa Truyện Kiều
của Nguyễn Du trong buổi trình diễn Nhạc của nhạc sĩ Quách VĩnhThiện tại
Conservatoire de Musique J.S. Bach, Bussy Saint-Georges ngày 12/4/2009.
[3] Socrate đã mô tả thi ca (lời được cảm hứng) như sau:
« Không phải do tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do
cảm hứng từ một quyền năng của Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu
loát như người ta thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi
ca cũng chỉ là một bộ môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng
lý trí con người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những tiên
tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được
rằng không phải do chính tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi lẽ
lúc ấy họ đã bị tước hết tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần
chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung gian các thi sĩ ! »
(PLATON, Ion. 534 c-d; 534 e..).
[4] cf. PLATON, Biện hộ Socrate 20 d-e.
[5] ESCHYLE, Prométhée
bị trói c..514.
[6] SOPHOCLE, Œdipe-Vua, c. 879-880.
[7] Sd. II 4.
[8] Sd. V 9.
[9] Kiều, c.62 : Đạm Tiên
nàng ấy xưa là ca nhi !
[10] c.127.
[11] Xem c.64. Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét