Chương IX
Hòa bình nơi cửa Phật
Nếu ảnh hưởng của
Lão học bàng bạc, khó tìm thấy một dấu tích nào cụ thể nơi nếp sống của người
Việt Nam, thì ảnh hưởng của Phật học ăn sâu vào tâm thức con người, thể hiện ra
trong ngôn ngữ, trong cách xử sự hằng ngày của mọi giới, qua hình ảnh linh thiêng
và thanh tịnh của ngôi chùa, qua bước đi chậm rãi khiêm cung của các bậc khất
thực, qua âm thanh đều đặn và trầm ấm của tiếng chuông, nhịp mõ… Những từ ngữ
Trung hoa “từ bi, hỉ xả” như đã Việt hóa từ đời nào, hàm ngụ một sức mạnh
thần thánh của lòng yêu thương đồng thời diễn tả sự độ lượng, bao dung, cứu người,
vô chấp, giữa lòng đời đầy gian trá, bạo động.
Dẫu có nhiều cách hiểu về Phật
học khác nhau như lối nói của nhà Phật gọi là “tùy duyên khai hóa”,
nhưng bất cứ ai là người Việt cũng cảm nhận được rằng cửa Phật là nguồn văn hóa
của tinh thần mở rộng ra với kẻ khác, không phân biệt hoàn cảnh bên ngoài của họ.
Ngỏ mở lòng người là “Từ bi”, là chia nhau một nỗi “khổ” chung của thân phận
làm người trong thời gian, nơi xã hội. Và từ chỗ cảm được nỗi khổ chung ấy, người
người nỗ lực giúp nhau tìm đường giải thoát.
Các học giả thường nêu lên Khổng, Lão
và Phật là tam giáo đồng nguyên, và tính cách đồng nguyên ấy không những phát
sinh từ một nguồn chân lý chung mà thôi, mà còn thể hiện những nét chung nơi bước
khởi đầu của kẻ nhập môn tìm Đạo. Thật thế, cả ba nền văn hóa Khổng, Lão, Phật
đều nêu lên một tiến trình tu tập, dẫu cách nói khác nhau: Tu thân, vô vi hay
vô chấp là điều kiện khởi đầu để ngộ được Đạo, là Chân lý. Kiến tạo hòa bình
khởi tự nơi tâm hồn mỗi người, vì sự gẫy đổ trật tự uyên nguyên không phải
nơi thiên tai, hạn hán, nơi thiếu sót của các cơ chế xã hội... Nhưng do nơi
lòng người chỉ biết có mình,”chấp ngã”, xa lòng nhân, quên Đạo, tự tôn tự
mãn.
Đức Khổng không minh nhiên nói mình là người
trời sai lên tiếng, nhưng gián tiếp nói Đạo Nghiêu Thuấn thiên hạ đã quên, nay
ông có bổn phận truyền đạt mà thôi. Và hiểu được ông chỉ có Trời. Lão không nhắc
đến Trời, vì Trời đã bị người thời ông lạm dụng danh nghĩa để làm nên “đạo giả
tạo” theo ý riêng mình, nhưng ông cũng
nêu lên là lời ông có gốc mà các thánh nhân thời xa xưa thực thi. Ông không nói
cơ duyên nào mà một mình ông, cũng là một con người như trăm người trong thiên
hạ, có thể thấy được Đạo, vượt lên khả năng của mọi người. Và sự thinh lặng đó
nói rất nhiều!
Đức Phật không nói gì nhiều,
nhưng lấy hành trình tìm Đạo, ngộ Đạo của mình để chứng thực chân lý của nhân
sinh.
Ngài được kinh sử chép lại
là con của quốc vương T ịnh-Phạn
cai trị thành Catìlavê. Ngài đã kết hôn với công Chúa Câutátla là Daduđàla. Một
hôm, vào gần tuổi 30, Ngài đi ra khỏi hàng cung và gặp những hiện tượng sinh,
già, bệnh, chết. Các hiện tượng tiêu cực đó gợi lên nơi Ngài những câu hỏi về
chân lý cuộc đời con người. Và sau khi suy nghĩ, Ngài xuất gia tìm Đạo. Lúc nầy
Ngài vừa có đứa con tên là Lahầula. Ngài tìm đạo theo sự hướng dẫn của hai ẩn
sĩ qua phương pháp thiền định. Nhưng sau một thời gian, Ngài thấy đây chưa phải
là con đường giải thoát. Ngài liền tự mình đi sâu vào rừng, ẩn mình, ép xác
cùng với năm người bạn của nhóm Kiều-trần-như. Sáu năm khổ hạnh, kiệt sức mà
không tìm ra lẽ đạo. Ngài bỏ con đường truy tìm nầy và trở lại cuộc sống bình
thường. Một hôm đang ngồi dưới cây Bồ-đề, Ngài tự nhiên “đắc đạo” vào năm 35 tuổi.
Thế là một vị Phật đại giác đã xuất hiện trên thế gian.[1]
Tác giả cuốn lịch sử triết học
Ấn độ, Thích Mãn Giác, cũng cho biết đương thời của Phật, tư tưởng Nhà Phật đã
gây nên chấn động và làm cớ cho nhiều cuộc tranh cãi gay gắt. Nói cách khác, có
một cái gì mới mẻ khác thường đã xảy ra, chỏi lại với truyền thống suy tư và
hành đạo của người Ấn độ đương thời. Không nói rõ ra, nhưng gián tiếp qua tiến
trình tìm Đạo và ngộ Đạo của Đức Phật, ta thấy được nguyên do của điểm khác lạ
nầy.
Các trường phái tư tưởng vào thời Phật, dẫu đa
biệt, nhưng tinh thần của văn hóa thời đó được gói ghém trong bước đầu tìm Đạo
của Phật. Các tác giả Tây phương mấy thế kỷ qua cũng từng chú tâm vào việc giải
thích Tứ Diệu Đế (Satya) nhưng không lưu ý đến “cửa” Phật, tức là chìa khóa để
thấy cái khác, cái mới nơi chân lý nầy.
“Cửa ” đó là câu chuyện cuộc đời của Phật, sự
thất bại của “tìm”, và con đường chân lý của « ngộ » (là gặp”.
Nếu lấy cặp mắt của kẻ “tìm
“với luận chứng liên hệ, thì thật ra Tứ Diệu Đế cũng chỉ là một trong muôn ngàn
câu nói khác trong các học thuyết đương thời với Phật, và hẳn nhiên không có cớ
gì để có những tranh chấp gay gắt ngay từ thời Phật còn sống nơi dương thế.
Tìm ở đây hàm ngụ rằng chân
lý đương nhiên ở trong tầm tay của mình. Sự bất toàn, khổ đau hiện tại chẳng
qua là hiện tượng nhất thời mà con người tiền kiến rằng tự sức mình mình có thể
vượt qua với những kỹ thuật tu đức, chiêm ngắm hay khắc kỷ khổ hạnh thì đương
nhiên đạt được chân lý và hạnh phúc … Con đường đi tìm của Tất Đạt Đa là tận dụng
các kỷ thuật tu đức của các bậc thầy đương thời, hoặc do công trình tu luyện
riêng để đạt cho được điều mà ngôn ngữ triết học ngày nay gọi là “một bản chất
đã tiền kiến được xét về mặt hữu thể học”. Theo lối diễn tả của Lão học là con
người tiền kiến có thể biết được, đánh giá trước được đâu là đúng, đâu là sai,
đâu là thật, đâu là giả rồi. Vấn đề là chỉ áp dụng phương pháp [2] đi tìm cho được điềm mình đã thấy trước mà
thôi.
Phần lớn sách nghiên cứu Tây
Phương dừng lại trong tiền kiến tìm đạo như thế nầy để trình bày về Phật học.
Và Chân lý của Tứ Diệu Đế thường được diễn
tả tuần tự theo nguyên lý nhân quả như sau:
Những hiện tượng khổ nơi sinh, lão, bệnh, tử => Khổ
Cuộc đời phù hoa, thân xác => Tập
Bỏ cung vua, thiền định, ép xác => Diệt
Đạt Đạo sau khi coi mọi sự là hư không => Niết Bàn
Nhưng, hiểu như thế có xuyên
tạc Phật là Đấng ngộ Đạo hay không?
Nơi thế giới của tiến trình
đi “tìm”, mỗi người, mỗi nền văn hóa, tùy lúc có thể tiền kiến một ý niệm nào
đó để trụ, để đặt nền cho chân lý mà mình tìm: khi thì bản chất của một vật thể
tự đủ cho mình, không thay không đổi, khi thì cho rằng Đại Ngã mà Tiểu Ngã mỗi
người có thể đồng hóa sau những tiến trình tu luyện, khi thì sự sống năng động
luôn linh hoạt trong vũ trụ bao la… Nhưng mãi cặm cụi tìm làm như mình có thể
biết mình là ai, mình tìm gì và để được cái gì rồi, kỳ thực thì con người có thể
đơn sơ tự hỏi mình như lời thơ của sách Job trong Kinh Thánh Do-thái giáo và
Kitô giáo nhắc nhở:
Ta sẽ vặn hỏi ngươi
và ngươi hãy cho Ta hay.
Ngươi ở đâu khi Ta đặt
móng cho đất?
Nói đi, nếu sự hiểu
biết của ngươi được soi sáng. (Job 38,3-5)
Tất Đạt Đa đã đi đến bước
cùng của con đường tìm đó, đến độ mòn mỏi cả cuộc sống thân xác, nhưng
không đạt đến kết quả tích cực nào trên con đường giải thoát. Cũng một kinh
nghiệm tương tự, các môn đệ Đức Kitô đã từng “vất vả suốt cả đêm, mà chẳng bắt
được con cá nào” (xem Gioan
21,3). Vì con đường đi tìm là đêm, khi ánh sáng chưa đến để gặp con người.
Thế giới thứ hai mà Phật nhận ra khi nhìn vào nhân sinh là
thế giới được thấy dưới con mắt của kẻ gặp (ngộ).
Phật tức là Tất Đạt Đa được
chiếu sáng (Illuminé). Nói cách khác như lời Thích Mãn Giác, Ngài nay là
“một vị Phật đại giác”. Một ánh sáng xuyên qua Ngài, ban cho Ngài sự hiểu
biết cao cả. Theo ngôn ngữ thông thường ta gọi Ngài đã “ngộ”.
Nhưng ánh sánh nào đã đến gặp Ngài? Gặp ai hay
cái gì?
Phật, kẻ đã gặp,
không hề nói ra bao giờ, phải chăng vì không thể nói ra, nếu không thì sẽ ngược
lại với chính chân lý của ánh sáng lạ lùng đã xuyên qua Ngài!
Nhưng với con mắt của kẻ đã
được chiếu sáng, Ngài nói đến yếu tính của cuộc sống con người qua Tứ Diệu Đế [3].
— Khổ (Dukkha):
Các học giả đã nói đến khổ khi nêu lên những hiện tượng nào sinh, lão, bệnh,
tật..., những khổ đau đa biệt trong cuộc sống con người. Nhưng phải can đảm để
nói lên rằng đó là những hiện tượng mà Tất Đạt Đa đã từng nêu lên trong bước đầu
tìm đạo. Khổ từ cái nhìn của kẻ đã gặp không dựa trên sự đánh giá theo
tiêu chuẩn kẻ tìm. Khổ là toàn thân phận con người ta,
chỉ vì thân phận người của mình[4]. Và hơn thế nữa
đây là hồn sống ban cho con người trong tương quan với Chân lý: Con người khao
khát Sự Thật.
Thánh Kinh Kitô giáo gọi “khổ”
nầy là “khát” và cũng là khổ nạn của Đức Kitô, con người trọn nghĩa: “Ta
khát” (Gioan 19,28; Tv 69,22)
Khát gì? Khát Chân Lý, là điều
mà con người và xã hội không thể ban cho.
Khổ, là vì trong thân phận
con người, con người khát và tìm chân lý, nhưng chân lý luôn ẩn mặt như bỏ mặc
kiếp con người: “Tại sao Ngài che mặt, và xem con như kẻ thù Ngài.” (Job
13,24). Job nơi Cựu ước đã nêu lên cái khổ sơ nguyên nầy; và trên thánh giá Đức
Kitô cũng đã thốt ra như thế để hoàn tất
công trình cứu độ của Ngài, diễn tả trọn vẹn chân lý thân phận làm người trong
dương thế :
Lạy Thiên Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con, tại sao Ngài đã bỏ rơi con? (Mt
27,46; Tv 22,2)
Người ta cho rằng giáo lý
nhà Phật bi quan vì đâu đâu cũng thấy là khổ. Thực ra nếu chỉ hiểu khổ như một
hiện tượng thể lý, tâm lý tiêu cực thì nhận định nầy thật chí lý. Trong khuôn
khổ hạn hẹp tâm lý thể lý, hẳn nhiên nhân sinh có khổ đau, nhưng cũng có biết
bao điều hay đẹp trong trần thế nầy mà Tạo Hóa ban cho, không thể nào vô ơn để
mãi than van. Nhưng « con người linh ư vạn vật » ngộ được rằng hơi thở
của sự sống linh thiêng cao cả nơi mình là cảm thức thiếu vắng, là khát khao
chân lý tuyệt đối. Tiếp cận lại hơi thở nầy, cảm nhận nỗi khát khao nầy thì con
người mở tung ra với một cảnh vực khác : cảnh vực của một chân trời mà
không một cái gì con người đủ sức tưởng tượng ra có thể là nó cả, không một
ngôn ngữ nào của con người diễn tả được cả. Với hơi thở sức sống mới, của khổ cứu
độ nầy, con người được đưa qua bên kia bờ, hay nói cách khác là được quay đầu lại
để thấy bến bờ của quê thật, để uy dũng sống nhân tính cao cả của mình.
Một người đang sống trong
thân xác làm người mà không biết đến đói khát nữa hẳn không phải là triệu chứng
đáng lạc quan ! Cũng tương tự như vậy, Ngộ được ý nghĩa của khổ như sự sống
của nhân tính chân thật của con người trong trần thế là thoát được cảnh mê lầm,
làm sao có thể cho đó là bi quan ?
— Tập (Sanmrudaya):
Chân lý thứ hai về thực trạng nhân sinh là Tập. Tập là làm (karma, nghiệp lầm lạc, gốc
chư « kr » tiếng sancrit là làm), là chuyển “khổ” vốn là sự sống
thật nơi thân phận làm người của mình thành dục. Nhà tư tưởng Frédéric
Nietzsche đã nói về « Tập » rất chu đáo. Ông cho rằng “khổ” như là sự sống con người trong thời gian, là khát
chân lý, là một nghiệp chướng không vượt qua nổi nữa rồi. Hãy diệt luôn tất cả
những tơ vương về Thượng đế, Chân lý, kể cả bóng dáng của nó. Hãy dám làm lại
một thế giới của cuộc sống nầy từ cái tôi quyền năng của mình.
Ông gọi “khởi nguyên mới” trấn áp được “khổ căn nguyên”, nghiệp làm người đó,
nay phải là ý chí quyền lực của cái
tôi.
Cách đây hơn 25 thế kỷ, Phật
đã thấu đáo cuộc phiêu lưu thực tế của con người trong trần thế và nơi lịch sử
như Nietzsche trình bày.
Có phải « Tập » là
nguyên nhân sinh khổ không?
Nhiều người đã giải thích
như thế khi muốn ghép Tứ Diệu Đế thành một hệ thống có nhân có quả, có đầu có
đuôi. Nhưng cần phân biệt khổ như một thực tế tiêu cực của con người và cuộc sống
(sinh , lão, bệnh, tử…), mà lúc ban đầu Tất Đạt Đa gặp khi ra khỏi cung điện của
mình, và khổ uyên nguyên là chân lý về thân phận tại thế của con người mà Ngài
đã ngộ trong Chân Lý như một ánh sáng đến với Ngài (Xem nhận xét của Walpola
Rahula nơi chú thích 71) [5].
Vì khổ nguyên sơ là nỗi khát khao chân lý, là thời gian trọn nghĩa (la
plénitude du temps), nên khi thấm nhập vào « khổ cứu độ nầy »
như ánh sáng soi đường thì con người mới thấy được “Tập”.
Qua ánh sáng của « Khổ »,
con người nhận ra thực tại nhân sinh đang mê lầm trong vòng vi của « Dục ».
Dục gắn bó với thân phận (nghiệp) con người trong khả năng tự do có thể chuyển
khổ nguyên sơ, khát khao và mở ra với Tuyệt Đối thành vòng vi của ý chí quyền lực
của cái tôi. Khả năng kỳ quái nầy của Dục như trăm ngàn bàn tay (=hành tạo
nghiệp) kết dệt nên muôn ngàn « thế giới », karma nhân tăng
karma ; nhưng toàn thể vô vàn thế giới do Dục làm ra, dù mang
trăm vạn nhãn hiệu khác nhau, kể cả việc nhân danh thần thánh và các giá trị
cao cả nhất, thì đằng sau lớp vỏ nầy là Dục, sức mạnh kinh hoàng mà Fr.
Nietzsche gọi là « ý chí quyền lực của cái tôi ».
Con người trong trần thế
không ngộ được ánh sáng của khổ uyên nguyên là chân tính của mình, là mối tương
giao sống động với « ai khác », thì vẫn mò mẫm và vất vả trong đêm tối
dày đặc của Dục.[Trong đêm ấy họ chả bắt được con cá nào (xem Gioan
21,3)].
Nguồn bất an, vô trật tự ở tại
Dục và ngã chấp, vì đây là căn nguyên của sai lạc và bạo lực. Vì thế kiến tạo hòa bình, trước hết là tìm lại
Phật tính, tức là xóa con đường Dục của chấp ngã để ngộ “Khổ” nguyên sơ.
Vào được cửa của khổ uyên nguyên thì chấp ngã vở tung ; bấy giờ con người nhìn ra được người chung quanh là kẻ khác,
khác với mình để mình tôn trọng tự do của họ; đồng thời cũng nhận nơi kẻ khác
nét cao cả của khổ uyên nguyên chung. Nỗi khổ ấy nối kết, bao trùm con người, mở
ra cái nhìn mới ( huệ nhãn = cái nhìn do ân phúc mang lại) giúp chúng ta thấy
được, và nối kết được với chúng sinh trong sự thật. Tương quan mới mà con người
nay cảm nghiệm được trong khổ uyên nguyên là từ bi « cùng chia nhau nỗi khổ = com-passion,
sym-pathie).
— Diệt (Nirodha):
Niết-bàn, còn gọi là “Không”. Con người đang ở trong cái có của cái
tôi, của Dục như một nghiệp chướng, một “tội nguyên tổ”. Từ
thực trạng « tăm tối » mà con người tưởng là « khôn ngoan phân biệt
được lành với dữ, có với không… » nầy
[6],
con người định giá về có và không. Trong ánh sánh của kẻ đã ngộ,
đã đi vào chân lý của khát và khổ uyên nguyên, thì có và không nầy
đều là mê lầm. Thánh Phaolô và thánh Augustinô hay nói rằng: 'Tôi sống nhưng thực
ra là tôi đã chết từ lâu rồi'. Thánh Kinh Kitô giáo hay dùng hình ảnh “bóng
đêm, cõi chết” để chỉ thực tại nầy. Nirvana, Niết Bàn, là Lời Chân Lý chối từ,
phủ định tất cả cái có và cái không mê lầm nầy. Lời phủ định (Vô, Không) đó
đúng là sự hiện diện của Chân Lý đang vắng mặt nơi thế giới ảo tưởng. Nói đến
Niết Bàn cũng nói đến sự diệt bỏ căn nguyên làm nên thế giới giả ảo, nên Niết
Bàn cũng là Vô ngã, Vô chấp.
Nếu chỉ hiểu “ngã” là thân
xác, là vật chất…, thì ta quên rằng căn cơ của “ngã chấp” không phải là thân
xác mà là ý chí quyền lực, là tự mãn.
Trong sứ điệp Kitô giáo,
chúng ta cũng đọc được câu truyện về điều làm cho con người ô uế. Trước tiền kiến
văn hóa cho rằng chỉ có vật chất làm ô uế con người, Đức Kitô nhắc cho người
chung quanh Ngài biết rằng : điều làm cho con người thành ô uế, hư hỏng phát xuất
từ tâm trí con người; chứ không do thân xác bên ngoài.
Chấp Ngã trong nhà Phật
không nằm nơi xác hay hồn, nơi cảm tính hay mơ ước. Ngã là Dục muốn thu
hết toàn bộ thuộc về mình. Chấp ngã đó, trong ngôn ngữ Kitô giáo, là con
người cũ, Adam cũ. Toàn bộ thế giới và con người cũ đó phải chết đi, phải diệt
đi để mặc lấy con người mới, nhận biết chân lý và mở ra với tha nhân. [7]
Và muốn chết đi thế giới
có–không của Ngã Chấp, thì cần gặp áng sáng nơi chân lý của khổ uyên
nguyên. Nên có lúc Phật lại nói, thấy Khổ là thấy Niết Bàn [8].
Con người chết đi cái tôi tự mãn, đóng kín…, mặc lấy sự khao khát chân lý trường
cửu mà mình không làm ra được, để mở ra với Tuyệt Đối và tha nhân, tạo lại cảnh thái hòa, đó là ngộ.
— Đạo (Marga): Bát-Chánh-Đạo
là những cách thức sống mới khi cái tôi giả ảo đã bị diệt. Đường đi đó gọi là
chính (Samyak). Chính là « an », cư ngụ trong Chân Lý,
cư ngụ nơi nhà thực của mình. Thế giới thực trong chân lý nầy không phải là một
cảnh giới nào khác ngoài vũ trụ đổi thay, ngoài thân phận con người hay chết;
nhưng thực trạng ấy của nhân sinh nay là trời mới đất mới nơi tâm từ bi, nơi huệ
nhãn … của kẻ ngộ được khổ uyên nguyên.
Bát là tám, biểu
tượng của vô số, của toàn thể. Bát Chánh Đạo là đường đi cho từng giây phút của
cuộc đời. Sách Trung Dung
của Nho học gọi “ Đạo không lìa một giây phút, nếu không thì không phải là Đạo”,
Thánh Phaolô thì nói rằng: khi ăn, khi uống, khi làm bất cứ việc gì khác … Bát
Chánh Đạo là Đạo hiện diện giữa toàn nhân sinh.
Con đường bát chánh cũng gọi là Trung Đ ạo: Trung không phải ở giữa,
ba phải, lương ương, nhưng Trung là trúng, là cư ngụ trong sự thật, như ta
đã thấy khi phân tích hai chữ Trung
Dung trong Nho học.
Đạo đó là nền của Hòa Bình.
Qua việc lược qua những ảnh
hưởng văn hóa được hội nhập nhuần nhuyển vào cuộc sống của người Việt, chúng ta
có thể tóm lược các nội dung đó qua mấy câu kết của truyện Kiều, để cảm nhận rằng
Hòa Bình là ân huệ nơi Tâm Duy Vi, là nơi nhân tính cư ngụ:
Có
tài mà cậy chi tài,
Chữ
tài liền với chữ tai một vần!
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa,
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài. (NGUYỄN Du- Kiều. 3247-3252)
[2]
Cũng nằm trong lối nhìn nầy, René Descartes đã viết cuốn Luận về phương pháp
(Discours de la méthode)
[3]
Xem Thích Mãn Giác « …Chung qui, không ngoài sự trình bày và giải
thích tứ-diệu-đế……Thành ra, giáo lý của Phật dạy, nếu có hệ thống hóa thì người
ta có thể xếp vào những giải thích và trình bày bốn thánh đế ấy » sđd,
tr 109
[4] « Đúng là trong lối nói hằng ngày, chữ
phạn dukkha (tiếng sancrit là duhkha) có nghĩa là khổ, đau, cực, khốn đốn…, đối nghịch lại với chữ sukha,
có nghĩa là hạnh phúc, thoải mái, dễ chịu. Nhưng từ ngữ dukkha trong khuôn khổ diễn tả Chân Lý cao cả theo quan điểm của Đức Phật về
cuộc đời và thế giới thì hàm ngụ một ý nghĩa triết lý sâu xa hơn và những nội
dung rộng rãi hơn nhiều…
Trong Tập Sách Anguttara-nikàya là
một trong những bản gốc được kết tập bằng tiếng Phạn chứa đựng những bài thuyết
pháp của Đức Phật, người ta kể ra nhiều hình thức hạnh phúc (sukhani), như
hạnh phúc cuộc sống gia đình, đời độc thân, khoái lạc thân xác, khoái lạc trong
tu thân quên mình, trong dấn thân và từ bỏ, hạnh phúc thể xác và hạnh phúc tâm
linh…Nhưng tất cảû đều nằm trong khổ dukhha:
ngay cả những trạng thái
thanh tịnh của thiền định (dhyàna), như lâng lâng thoát khỏi những tơ vương khổ
đau theo nghĩa thông thường, những trạng thái được diễn tả là hạnh phúc thuần
khiết; ngay cả trầm mình vài cảnh thiền dhyàna giải thoát hết mọi cảm giác sướng
(suhka) hoặc khó chịu (dukkha), chỉ còn là thanh tịnh thuần túy - ngay cả những
trạng thái linh thiêng cao độ đó cũng nằm trong KHỔ - Dukkha” (Walpola
Rahula, L’enseignement du Bouddha,
Paris, Seuil, 1961, tr. 36-37.
[5] Ta
cũng gặp một lối giải thích nhân quả tương tự về việc đánh giá mọi khổ đau bên
ngoài là hậu quả của gian ác, khi các môn đệ Đức Kitô hỏi Ngài xem sự mù lòa của
một người mà họ gặp là kết quả của tội lỗi gì nơi người ấy hay nơi tổ tiên hắn.
Đức Kitô trả lời rằng mọi sự xảy ra vì vinh quang Thiên Chúa (xem Gioan 9,1-3)
[6] Xem
sách Sáng thế Do-thái giáo và Đạo Đức kinh của Lão tử
[7] Lời
Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô
Assisi dùng lối nói nầy : Xin
cho con biết chết đi, để vui sống
muôn đời…
[8] “Ai
thấy Khổ Đế thì thấy Tập Đế, và cũng thấy Niết- Bàn và Bát Chánh Đạo” Xem The book of the kindred
sayings (Samyutta-nikàya) or grouped suttas,
5 t. Oxford, Pali Text Society, 1992-1994 : tome V,
tr. 437.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét