Chương VI
CUỘC CHIẾN LÀM NGƯỜI
BẢN BI KỊCH OEDIPE-VUA CỦA SOPHOCLE
Trong bản bi kịch Oedipe–Vua, Sophocle không còn mượn những nhân vật thần thoại để
diễn tả thân phận của con người, nhưng sử dụng những nhân vật hầu như hiện thực
của cuộc sống xã hội của thành Nhã Điển[1]
(vào thế kỷ V trước công nguyên).Và cuộc chiến làm người càng được đưa gần với
cuộc sống hiện thực (nhất là phải tiếp cận với trào lưu những nhà thông thái
ngụy biện đang bùng lên[2]
), thì những lý chứng về nền tảng căn cơ của đôi bên về ý nghĩa nhân tính lại
càng được nêu lên để biện minh.
Sinh hoạt của
thành Nhã Điển lúc bấy giờ đang chuyển qua một bước ngoặt mà các tác giả bi
kịch không phải là những người làm phát ngôn cho nền văn hóa đang phổ biến;
nhưng ngược lại, họ là những tiếng nói
bên lề lịch sử nhắc nhỡ con người đương thời về nguy cơ quên lãng ý nghĩa nhân
tính trong khung cảnh văn hóa của thời đại mà họ đang sống. Bước ngoăït của văn
hóa mà các nhà bi kịch Hy-lạp đặt thành vấn đề đó là nền văn hóa homo sapiens mà trào lưu ‘khôn ngoan’
tôn vinh : Con người ‘khôn ngoan, thông thái’ mà Platon sau đó sẽ trình
bày rõ nét trong các tác phẩm của ông qua các nhân vật được Socrate gọi là
những kẻ ‘tài trí’, đặc biệt là Protagoras. Con người ở đây được nhận ra qua nét cá biệt
giữa muôn sinh vật như là loài biết nói.
Và lời nói được hiểu là « đo lường các sự vật » và gọi tên chúng. Từ
xác tín về nét cá biệt chung của những sinh vật gọi là người nơi khả năng
« đo lường sự vật » như thế, con người đã có được nền tảng công lý
trong tay để xây dựng được cộng đồng dân chủ thành Nhã Điển. Mối liên hệ giữa Gaia và Thémis, giữa khả năng đo
lường sự vật và công lý xây dựng
cuộc sống chính trị công dân đã được Eschyle đặt vấn đề trong Prométhée bị trói. Đến giai đoạn bản bi
kịch Oedipe–Vua ra đời, 30 năm sau kể
từ khi có bản kịch Prométhée bị trói,
Nhã Điển vừa chứng kiến một nếp sinh hoạt dân chủ được tổ chức hoàn bị hơn với
những kiến thức sự vật tiến xa hơn, nhưng cũng vừa phải đương đầu với những rối
loạn xã hội và thiên tai nặng nề hơn. Lời cảnh giác của nhà bi kịch Sophocle (xuyên qua hình ảnh con người hiểu biết
Oedipe, là cha một nhân loại mới, là chủ một xã hội mới và cũng là nguyên cớ
của tội ác và khổ đau, là kẻ khốn cùng
hơn cả [3]) được gióng lên
như lời thách đố tối hậu có liên quan đến sự mất còn của ý thức con người về
chân tính của mình.
1 – Cuộc chiến
giữa chân yi1nh và tư thân
a/ Cuộc
chiến làm người
Từ lối hành văn rất đặc biệt [4]
của thể văn bi kịch cũng như từ những kinh nghiệm cá nhân[5]
của tác giả và hoàn cảnh lịch sử của thành Nhã Điển vào buổi đương thời, đến
lối đặt vấn đề một cách rốt ráo về nhân tính, bản văn Oedipe Vua thường được xem là bản văn tiêu biểu cho tư tưởng bi
kịch Hy-lạp. J.P. VERNANT và P.
VIDAL-NAQUET từng nhận xét :
« Lời nói song nghĩa không
phản ảnh bản ngã tâm lý nhị trùng nơi Oedipe, một con người rất bình thường,
nhưng sâu xa hơn đó là vấn đề hai cảnh vực đối đầu nơi nhân tính. Oedipe có hai
khuôn mặt. Tự nơi ông đã là một bí ẩn
mà ông chỉ đoán ra được ý nghĩa dần hồi nơi mặt trái của bất cứ việc gì mà ông
đã tin và sống qua».[6]
Từ ý nghĩa từng chữ Oedipe và Vua, đến sự
liên kết giữa hai chữ nầy làm thành tựa đề bản bi kịch, tất cả đều hàm ngụ
những sự đối kháng, mâu thuẩn. Oedipe –
Vua là thân trạng của con người tự đánh giá là văn minh của Thành Nhã Điển,
con người tự xem mình vượt hẳn mọi người về hiểu biết, quyền uy và danh
tiếng ; nhưng đó cũng là con người quên lãng tư tưởng, chân lý và nhân
tính của mình như Socrate[7]
từng nêu lên trong phiên tòa xử tử hình ông. Nhưng vượt lên bối cảnh giới hạn
của lịch sử, Sophocle muốn đặt vấn đề về thân phận chung[8]
của con người mang nghiệp tự thân qua hình ảnh Oedipe Vua : vừa tự hào nắm ánh sáng hiểu biết mọi sự trong
tay, nhưng vừa mù tối không biết đến lý lịch tức là những tương quan kết dệt
nên nhân tính.
Oidipous :
- Oidi gợi lên hình
ảnh của tài trí con người : Oida
là biết [9]. Pous là chân để bước đi, là hình ảnh con
người đang thể hiện nhân tính của mình, là Đạo,
là « con đường » mà hầu như ngôn ngữ của bất cứ nền văn hóa nào cũng
dùng để diễn tả phân vụ hoàn thành nhân tính của mình. Oidipous, nhờ ánh sáng của tài trí và quyền năng chế ngự mọi sự, đã
tự định nghĩa nhân tính của mình trong khuôn khổ của ánh sáng và tài năng đó.
Tác động tự mình làm ra nghĩa của nhân tính cho mình (đi liền với việc lãng
quên mối tương giao ẩn kín làm nên lý lịch căn nguyên của mình) làm phát sinh
tương quan mới (= một hôn nhân không phải là hôn nhân), một thời mới, một nhân
loại mới vâng theo ý muốn độc tôn của con người hiểu biết.
- Nhưng Oidos còn có nghĩa là bị sưng, bị
thương tích, bị khổ đau và bị bỏ rơi nơi vùng đất xa lạ : (v.
713-714 , Jocaste : ...Đứa bé
vừa sinh ra, chưa đủ ba ngày, thì Laios đã
cột chân, vất nó trên một núi đồi hoang vu[10]). Ánh sáng của
người mù, ánh sáng mà người khôn ngoan Oedipe không biết và hơn thế nữa không
muốn chấp nhận, sẽ chỉ cho Oedipe con đường hướng về quê thật, nguồn sống thật
nơi ‘hôn nhân cũ’ làm nên mình : Tirésias : ...Ta vốn là kẻ khôn ngoan dưới con mắt của những kẻ sinh ra ngươi [11] ...Tội nhân giết Laios mà ngươi tìm ...là
người hiện diện ở đây...., người ấy sẽ ăn mày, và quờ quạng bước đi tìm đường
với chiếc gậy, và lưu lạc nơi xứ người [12].
Tyrannos
Oedipe
vốn thuộc hoàng gia nơi quê thật của mình, con của Laios
và Jocaste, nhưng Oedipe không hề biết. Oedipe hiện tại (= theo sự hiểu biết
nơi khả năng trước mắt của ông) lại là con của vua Polybe[13]
và hoàng hậu Mérope, vua chúa xứ người,
và chỉ là cha mẹ nuôi.
Oedipe
là vua thành Thèbes: thầy cả của Thèbes gọi Oedipe là đấng tối cao
(kratunwn[14]) y như
danh hiệu mà dân chúng qua ca đoàn từng xưng hô Zeus là kratunwn[15], là đấng cứu
độ (swthr[16], cứu
dân thoát khỏi ôn dịch như đã cứu dân thành Thèbes khỏi sự quấy phá của Nhân-sư
), là người mang ánh sáng trí tuệ của mình để tìm kẻ sát nhân và phân xử (egw janw[17]).
Nhưng người mù Tisérias (mà Oedipe coi là chỉ sống từ cõi tối tăm[18])
sẽ khai mở cho Oedipe thấy mình không là gì cả (là ngộ không = ta chỉ thấy
ngươi là số không[19]), là một kẻ sát
nhân[20],
là người làm ô uế [21]thành
Thèbes, một kẻ tệ hại nhất[22],
khốn khổ nhất trong mọi người [23],
một kẻ thần thánh xa lánh ghét bỏ[24]
và phải bị lưu đày biệt xứ[25](=
apoliz).
Mỗi một chi tiết trong toàn bộ bi kịch là mỗi
một cuộc xung đột, loại trừ nhau. Nét đặc trưng của hình thức văn chương bi
kịch Hy-lạp trong lối nói song nghĩa nầy gắn liền với cách đặt vấn đề về ý
nghĩa nhân tính đúng như nhận xét của J.P Vernant và P. Vidal – Naquet :
« Qua
lối luận luận lý nói ngược liên quan đến lối suy tư song nghĩa đặc loại của bi
kịch, một lối nhắn nhủ riêng đề nghị cho khán giả : con người không phải
là một hữu thể có thể mô tả hoặc định nghĩa; con người là một vấn đề, một bí ẩn
mà không bao giờ ta giải mả được các ý nghĩa đôi đường của nó. Ý nghĩa của tác
phẩm không nằm nơi khuôn khổ tâm lý hay đạo đức; nó nằm trong khuôn khổ đặc
loại của tư tưởng bi kịch »[26].
Ý nghĩa của các tác phẩm bi kịch và cũng là
nghĩa của nhân tính không gì khác hơn là cuộc chiến không giây phút nào ngơi
nghỉ, không thể có hồi kết như chiếc cung luôn căng lên [27] ; cuộc chiến đó là sự sống của nhân tính, là
nghĩa[28]
tức là nhà nơi cư ngụ (hqoz) của
con người. Tư tưởng bi kịch phản ảnh nghĩa của nhân tính qua ước vọng tối hậu
của ca đoàn đại diện cho tiếng nói của cộng đồng nhân loại khi chứng kiến bước
đường cùng của người tài trí :
« ... Tôi cầu xin Thần Thánh đừng bao giờ để
cuộc chiến vinh quang đem lại sự sống cho nhân quần phải ngưng nghỉ.. » [29].
b/ Cuộc chiến không tương nhượng giữa chân lý
và tự thân
· Nghĩa làm người ở ngay trong cuộc chiến giữa
tự thân và chân lý
Để diễn tả nét đặc trưng của sức sống hay nghĩa
của nhân tính trong « cuộc chiến vinh quang đem lại sự sống cho nhân
quần », Sophocle cho thấy thực tại mang dấu tích bi kịch là thực tại
của giao điểm giữa hai con đường[30],
nơi ấy chân lý hoặc vô chân sẽ loại trừ nhau . Con đường Oedipe đang đi để
tự mình hành đạo sẽ gặp con đường Laios là nguồn ban sự sống cho Oedipe, nhưng
nơi gặp gỡ là nơi Laios và Oedipe tương tranh và một trong hai phải chết :
Oedipe : « Trên đường tôi đang đi, ngay
khi tôi đến gần giao điểm giữa hai con đường, một người dẫn đường, tiếp đó là
một người ngồi trên xe có ngựa kéo giống hệt như người mà bà mô tả, đi đến đối
diện tôi.. Người dẫn đường và chính ông lão tìm cách đẩy tôi lui. Tôi nỗi giận
đánh ngay người dẫn lối muốn hất tôi khỏi đường tôi đang đi. Nhưng ông già thấy
tôi, ông đợi lúc tôi đến gần, cạnh xe ông, ông quất roi đập hai cái ngay trên
đầu tôi. Ông ấy trả giá đắt về cử chỉ ấy ! Trong chốc lát, tôi dương gậy
đánh trúng ông, làm ông ngã xuống xe và lăn trên đất – và tôi giết hết mọi
người... »[31]
Con đường khai lối về lý lịch chân thật cho con
người đang ở trong nghiệp lãng quên, con đường ẩn kính và chỉ ghi dấu tích nơi
khổ đau (đầu người hiểu biết trong ánh
sáng ban ngày bị đánh mỗi lần tiếp cận với căn nguồn mà mình không thể
biết), con đường hiện diện gần gũi nơi cảm thức vắng bóng và xa cách, nơi
khả năng lắng nghe được lời khước từ
mọi hình thái của tự thân là chân lý
(Laios chận lối đi của Oedipe): con đường ấy không phải là con đường song
song, con đường nối dài, phóng đại con đường của Oedipe đang đi . Và con
đường Oedipe đang đi cũng không phải là hình ảnh thu nhỏ, một lối mô phỏng con
đường của sự thật bị lãng quên. Hai con đường nầy đang giao chiến một mất một
còn và loại trừ nhau[32].
Nghĩa của nhân tính, sức căng thẳng của sự sống
vinh quang làm người đối với tư tưởng bi kịch là cuộc chiến giữa ngã ba đường
nầy, là thời nguyên sơ và chung mãn theo nghĩa là thời của chân tính con người,
là thời « đồng thời đang giao chiến, đồng thời mâu thuẩn nhau ». Mỗi
một tình tiết trong bi kịch Oedipe-Vua
hàm ngụ thời đang giao chiến giữa hai thời, giữa hai mối tương quan mà Sophocle
dùng hình ảnh hôn nhân thật và hôn nhân giả để gợi ý.
-
Từ khởi nguyên, sấm ngôn đã cho hay ‘số phận Laios là phải chết dưới tay của một
người con trai do ông và
Jocaste sinh ra’[33]. Nhưng cũng từ khởi nguyên (khi Oedipe
mới sinh), Laios đã ‘trói chân Oedipe và
bỏ rơi trong một đồi núi hoang vu’[34]
xa lối mòn của con người để Oedipe nhớ đến lý lịch của mình và tránh tội giết
cha, đi vào con đường lầm lạc.
-
Nơi Thành Corintô, quê của cha mẹ nuôi Polype và
Mérope, vùng đất trời của khả năng hiểu biết trong tầm tay con người, Oedipe
lần đầu tiên thoáng nghe một lời nói bất ngờ của một người say (ở ngoài vòng
khôn ngoan của lý trí) và một lời thần mộng từ bên kia bờ:
Oedipe :
... Một người say ‘gọi tôi là đứa con
nuôi’[35], ...Thần Phoebos ứng cho hay : tôi sẽ chung giường với mẹ tôi,
làm ra một giống tộc ghê tởm ; tôi sẽ là kẻ giết cha là kẻ sinh ra tôi.[36].
Nhưng vừa khi
tiếng sét kinh hoàng thức tỉnh con người về thân phận thật của mình, tiếng sét
như lời xa lạ dấy lên điều đáng suy nghĩ mà chưa thời nào của con người từng
suy nghĩ ..., thì ngay khi tiếp cận con người, nó đã bị biến thể thành lời con
người trong nghiệp lãng quên chân tính của mình. Tiền kiến Polype là cha, Mérope là mẹ,
Corintô là quê thật như đã là một nền tảng kiên cố, một sự hiển nhiên do từ ánh
sáng duy nhất mà con người sẳn có trong tay để hiểu biết, nghĩa là để tiếp cận
mọi sự. Với ánh sáng hiểu biết nầy, Oedipe truy vấn cha mẹ nuôi trước mắt để
biết về thân thế mình; và cũng với ánh sáng nầy Oedipe quyết định lìa quê
Corintô để bảo toàn sự thiện hảo khi quê hương ấy được đánh giá là một nguy cơ
gây ra sự ác. Con đường tìm kiếm lý lịch của mình, con đường nỗ lực hy sinh
ngay cả từ bỏ quê nhà mình để khỏi vi phạm công ly..., toàn bộ những con đường
của con người hiểu biết Oedipe ấy vốn
đã ở trong con đường lạc lầm.
-
Cuộc chiến còn được mô tả là gay gắt và bất
tương dung hơn cả nơi cuộc xung đột loại trừ nhau ở ngã ba đường, nơi Oedipe
lần duy nhất gặp Laios và cũng là lần kết thúc sự sống của căn nguồn của mình.
Trên bước đường phiêu lưu tìm đạo của mình, Oedipe lại bị chận lối bất ngờ ở
một ngã ba đường. Kẻ mà Odipe gặp là Laios đã vung roi đánh vào đầu Oedipe,
ngăn cản bước chân Oedipe. Nhưng Oedipe lại vung gậy giết kẻ sinh ra mình mà
không hay[37].
-
Ngã ba đường, thời xung đột bất tương dung ấy
cũng được diễn tả rõ nét trong mối liên hệ giữa Oedipe và Jocaste. Vừa sinh ra
Oedipe trong thân phận làm con, thì buộc phải xa Mẹ Jocaste. Đến lúc gặp và
sống chung được với Jocaste, thì cùng lúc
đó Oedipe đã biến Mẹ Jocaste thành vợ của mình. Và cuối cùng, giây phút Oedipe nhận ra Jocaste là mẹ thì cũng là giây
phút Jocaste chỉ còn là một xác chết.
·
Chân lý
xuất hiện nơi lời phủ định tự thân
Cuộc chiến bất tương dung (là điều mà lối nói
thi ca của các nền văn hóa thường gọi là Mệnh) hàm ngụ lời phủ định nhau, một
sự bó buộc không thể tránh né, một cảm thức đau thương. Những nội dung như Mệnh,
Hư Vô, Khổ liên quan đến nghĩa nhân tính trong tư tưởng bi kịch chỉ có
thể hiểu trong khuôn khổ của cuộc chiến làm người nầy.
Hai con đường, hai cuộc hôn nhân hay hai mối
tương quan (hoặc tự thân hoặc chân tính), không hứa hẹn một tổng hợp nào .
Trái lại trong nghĩa của nhân tính, toàn bộ và mỗi giây phút của con người là thời đồng thời của cuộc chiến đau thương
, đôi bên triệt để phủ định nhau. Sophocle diễn tả nghĩa của nhân tính bi
thương đó trong cuộc đối thoại giữa Tisérias, phát ngôn cho chân lý và người
hiểu biết Vua Oedipe :
Tisérias: Dưới mắt ngươi ta là kẻ
khờ chăng ? Thế nhưng ta vốn là một kẻ sáng suốt dưới con mắt của
những kẻ sinh ra ngươi ?
Oedipe : Những kẻ nào sinh ta ? Ông phải
nói rõ. Ta là con của ai ?
Tisérias : Thời
mà ngươi sinh thì cũng là thời mà ngươi chết
Oedipe : Ngươi chỉ giỏi dùng lời mù mờ, bí
ẩn...[38]
Nghĩa con người bị buộc vào hai thời : thời
con người tự xuất lộ đi liền với nghiệp quên lãng lý lịch thật của mình và thời
bước chân con người bị đập gãy, bấy giờ dấu tích chân tính sẽ nhận ra nơi khổ
đau.
Nhưng thời của cuộc chiến bất tương dung làm nên
sức sống con người ấy, không thể nào Oedipe, vốn đang bị buộc trói với thời của
ánh sáng ban ngày (jusei) nơi con người
hiểu biết, có thể tiếp cận được. Toàn bộ
thời của ánh sáng ban ngày với những hình thái động tĩnh, sống chết, chủ động
hay thụ động ..., tự nơi nó, là một sự quên lãng triệt để, một lời phủ định căn
nguyên thời của cuộc chiến làm người.
Trong
bản văn Prométhée bị trói của Eschyle, Prométhée kể công lao của con người
hiểu khởi đầu bằng việc hạ bệ Thần Thời Gian Cronos và xóa được nỗi kinh hoàng
của sự chết nơi tâm thức con người. Thời gian lịch sử tiến bộ của nhân loại văn
minh được Prométhée mô tả sau đó, ở ngoài thời của nhân tính Cronos.
Sophocle qua bản bi kịch Oedipe – Vua , ngay ở phần dẩn nhập, đã mô tả vinh quang và quyền
uy tối thượng của lý trí đối diện với một khổ đau, một nguy cơ mà căn do ở bên
ngoài mọi tiên liệu của lý trí nầy. Căn do không tìm ra hoặc bị lãng quên là vì
có sự hiểu lầm căn nguyên được tượng trưng qua lời thách đố của Nhân-sư :
Créon : Nhân-sư với tiến hát đánh lừa, buộc
chúng tôi phải bở qua điều mà chúng tôi không biết, để nhìn tai họa trước mắt
(mà thôi)[39]
Như lần đầu
người say đã nhắc Oedipe về thân thế thật của mình, và lời nhắc nhỡ ấy đã bị
ánh sáng của lý trí hiểu biết xuyên tạc ý nghĩa, lần nầy cũng một sự kiện như
thế đang lặp lại. Khổ đau của con người, qua hình ảnh tai ương mà dân Thành
Thèbes phải chịu, vừa lên tiếng để nhắc nhở tai họa quên lãng nghĩa nhân tính,
thì cũng lúc ấy toàn dân Thành Thèbes, từ dân chúng bình thường đến các thầy cả
của Zeus đến Oedipe đều chỉ hiểu khổ đau nầy như một điều kiện, một thách đố mà
quyền năng lý trí tiền kiến đương nhiên sẽ chiến thắng. Trong ánh sáng của lý
trí ấy, Oedipe từng mô tả mình là kẻ phải chịu khổ đau hơn ai hết trên
đời :
Oedipe :
Tất cả các ngươi khổ đau, ta biết ;
nhưng các ngươi khổ đau thế nào đi nữa thì không ai trong các ngươi khổ bằng ta[40].
Oedipe cũng
khổ, cũng sai Créon đi hỏi thần thánh[41]...
nhưng khổ đau ấy, thần thánh ấy của Oedipe ở trong cái nhìn của ánh sánh ban
ngày, và nằm ngoài nghĩa nhân tính, nằm ngoài cuộc chiến căn nguyên.
Ca đoàn trong
bản kịch đã diễn tả con người ngoài cuộc chiến, ngoài khổ đau nơi Oedipe hiểu
biết như sau :
Ca
đoàn : ...Hắn đã từng nhắm đến đích
cao tuyệt đỉnh. Từng biến mình làm chủ một vị thế và một hạnh phúc tòan mãn.
Hởi
Zeus, hắn từng đánh gục Nữ Thần canh giữ cánh cửa kiên cố. Hắn từng hiên ngang
đứng trước thành chúng ta như một đồn lũy ngăn chận sự chết.
Và vì thế, hởi Oedipe, ngươi được tuyên
dương là vua của chúng ta, đã nhận những vinh quang cao cả nhất, đã trị vì trên
thành Thèbes uy hùng[42].
Thực tại con người xuất hiện ra trước mắt (jusei) thì đã là thực tại của Oedipe hiểu biết, đã
trụ vào một hiện tại vững chắc là chính chủ thể Oedipe – Vua ngự trị trên tất cả. Một Oedipe mà là tất cả, mọi
tương quan chỉ là tác động tự đóng tự mở, tự sinh tự diệt, tự sa sẩy để rồi tự
cứu. Thực tại đó hàm ngụ một cái nhìn xem mọi tương quan khác với tương quan
hiểu biết (dựa trên chân lý như là tự thân) là hư vô[43]
(o
mhden eidwz
Oidipouz...) ; chỉ còn ta và
những gì vâng theo ý ta là thật.
Đáp lại với lời phủ định của tự thân xem mọi
tương quan khác với mình là hư vô, lời chân lý đến với toàn bộ thực tại ấy cũng
là lời phủ định dứt khoát :
Ca
đoàn : Hỡi các thế hệ con người, ta
chỉ thấy nơi các người là hư vô [44].
Hư vô nầy
không bao giờ ở trong vòng vi có/không
dựa trên chuẩn mực và phán đoán của con người hiểu biết : nó không hề có
nghĩa là không hiện hữu, không giá trị, là một yếu tố tiêu cực, một cực điểm
đối nghịch với một xác quyết bất chừng nào đó. Hư vô là lời phủ định dứt khoát của chân lý đến với thực tại đang
ngũ mê quên lãng con đường của mình, con đường chiến đấu . Hư vô là tác động lật nhào nhà Vua
Oedipe, bẻ gãy bước chân của con người đang ung dung bước đi với ánh sáng của
đôi mắt kẻ hiểu biết :
Ca
đoàn : Bạo hành sinh ra độc tài
(=vua).
Khi bạo hành làm choáng váng, không biết thời của mình, không biết nguy
cơ, và khi đã đến mức tuyệt đỉnh, thì bất ngờ lại rơi vào vực thẳm không thể
nào tránh được, bấy giờ đôi chân gãy nát đâu còn ích chi ![45]
Hư vô như
lời của chân lý phủ định tự thân sẽ ụp đến bất ngờ, nghĩa là ngoài mọi lối thẩm
định, ngoài khả năng tiên liệu của toàn bộ khả năng của người hiểu biết. Lời từ
khước chân tính nơi bước chân con người hiểu biết ấy là Mệnh.
Mệnh là lời nói bất tương nhượng, là quyền uy
tối thượng của chân lý khi xuất lộ ra với lời con người.
Nhân vật Tisérias được tác giả bi kịch Oedipe-Vua cho đóng vai trò làm phát
ngôn của chân lý, là lời của Mệnh đối kháng và phủ định lời của oedipe Vua:
Ca đoàn : Có một vị có thể nhận diện (tội nhân) :
người ta đang dẫn người thầy bói trung thực, người duy nhất giữa nhân loại,
mang sự thật trong mình !’[46]
Sự thật đó xuất lộ giữa thực tại con người qua
cuộc tranh chấp bất tương nhượng ; bằng nhiều phương cách giữa, Sophocle
diễn tả sự xa cách tuyệt đối, cuộc chiến bất tương nhượng ấy nơi cuộc đối thoại
giữa Tisérias với Oedipe .
·
Thinh
lặng của chân lý ở trong thế giới của lời con người
Lời của sự thật, lời quyền uy, trước hết xuất lộ nơi sự khước từ dứt
khoát đi vào vòng vi của lời con người, ngay cả trước lời thách thức hay van
xin, cũng như lời buộc cáo hay phủ định của con người:
Tisérias :
Nầy, hãy để ta trở về nhà ta : chúng
ta hẳn sẽ ít mang đau thương cho nhau...[47].
Oedipe : ...Chúng tôi tất cả quì đây, dưới chân ông, van xin ông.
Oedipe : Như vậy thì nầy ! Trong cơn tức giận,
ta sẽ nói đều uẩn ức trong lòng ta. Dưới mắt ta, ngươi là kẻ đã âm mưu tội ác,
chính ngươi là thủ phạm – chỉ có điều là ngươi không trực tiếp ra tay thôi. Giá
như người có mắt, thì ta có thể nói rằng chỉ có ngươi, một mình ngươi đã làm[50].
·
Chân lý
lên tiếng trong quyền uy
Quyền y của sự thật là mệnh lệnh, vì sự thật
không tương nhượng bất cứ gì ngoài sự thật nơi mình. Quyền uy ấy im lặïng trước
bất cứ thách thức nào từ ý muốn, tài năng của tự thân. Chân lý im lặng hay phủ
định tự thân vì không lời nào từ phía tự thân đi vào được tương quan làm nên
nhân tính cả. ‘Sự thật ở bên ngoài vòng
kềm tỏa của tự thân’, nó là một tương quan khác tự thân, chứ không phải một yếu tố đối nghịch trong cùng loại
tương quan.
Bất chấp lời phủ định chân lý nơi lời con người,
Tisérias không khai lộ gì về chân lý ngoài lời ‘thinh lặng’ :
Tisérias : Vâng, do quyền uy của sự thật[51]... Ta ở bên ngoài
vòng kềm tỏa của ngươi : trong ta có sức mạnh của chân lý [52]
Tisérias : Ta nói rằng chính ngươi là kẻ sát
nhân mà ngươi đang tìm.[53]
Tiếp cận hồn của tư tưởng bi kịch Hy-lạp nay
được hiểu là ý thức được nền tảng lung lay của tiền kiến về chân lý là tự
thân ; theo lối nói Nhà Phật là ngộ được tiếng không như lời từ chối của chân lý về con ngủ mê của tự thân.
2
- Ý nghĩa nhân tính gắn liền với khổ và
cứu độ
· Khổ cứu độ
Thời khổ hoặc ngày hôm nay của kẻ giác ngộ, của kẻ
gặp ánh sáng soi dọi lý lịch căn nguyên của mình, được bản văn nhấn mạnh là ở
đằng sau hai cánh cửa đóng chặt. Đối với tư tưởng bi kịch Hy-lạp, thời khổ và thấy tất cả đó là thời hoàn thành, thời trọn đầy khai mở ý nghĩa
của chân tính. Khổ ấy là cảm ứng uyên
nguyên và cũng là bến bờ phải đến . Vấn đề ý nghĩa của nhân tính và dĩ
nhiên là của tư tưởng bi kịch chỉ được nêu lên và khai triển trên nền tảng nầy.
Chúng
ta sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng tiếng nói của chân lý đến với con người không
phải làm cho con người hạnh phúc thêm hay hoàn thành hạnh phúc mà con người
đang mong ước ; nhưng chân lý là khổ
đến với con người để con người ở trong khổ.
Ở Corintô vấn
đề lý lịch của Oedipe bị một người say
đặt thành vấn đề, con đường đi của Oedipe bị sấm ngôn cho hay trước là vô
đạo : Oedipe cảm thấy xao xuyến và khổ.
Nhưng con người
có khả năng tiếp cận khổ, thì cũng có
nguy cơ không hiểu, có nguy cơ lầm : Oedipe đã vận dụng ánh sáng giúp mình
chế ngự thế giới trước mắt và gọi tên muôn vật để hiểu khổ và giải quyết vấn đề ý nghĩa nhân tính. Tự nơi hành vi tự cứu nầy,
tương quan làm nên chân tính đã bị cắt đứt : Laios bị giết do chính thiện
chí của Oedipe.
Hành vi tự cứu
ấy của Oedipe cũng là hành vi biến khổ
thành một thách đố để con người thể hiện ý muốn ‘làm vua’, làm chủ ý nghĩa của
chân lý, được trình bày rõ qua tiếng hát phỉnh gạt của Nhân-sư và nhất là qua
lối hiểu và giải quyết vấn đề của Oedipe.
Nhưng con người
có khả năng lãng quên khổ một cách
triệt để nơi tác động tự cứu, thì khổ
lại đến như tiếng nói trả thù đòi
phải làm chết đi toàn bộ thế giới của tự thân nơi con người: khổ đến để báo động nguy cơ về chân tính
con người bị đe dọa từ tận căn, đụng ngay đến nền của vương quốc Thành Thèbes,
đụng đến Vua Oedipe : « Oedipe : ...Các người khổ, tất cả các ngươi, ta biết điều đó ; nhưng nỗi khổ
ấy dù thế nào thì không ai trong các ngươi khổ như ta...Lòng ta đau cho cho
thành Thèbes và cho các ngươi cũng như cho ta, cho chung hết [54]».
Khổ đi liền với
tình trạng lâm nguy và mong ước được cứu. Tư tưởng bi kịch Hy-lạp luôn gắn liền
thắc mắc về chân lý và nhu cầu được cứu độ. Hai ý niệm đó bất khả phân ly. Chân
lý chỉ được gọi là chân lý khi có khả năng cứu con người đang ở trong tình
trạng lâm nguy, một mất một còn .
Nhưng
chân lý cứu độ ấy cứu con người khỏi nguy cơ gì, và cống hiến cho con người
điều gì khi được cứu độ ?
Nguy cơ
trong bản bi kịch Oedipe Vua là chính
Oedipe –Vua, một nguy cơ tối hậu được mô tả như phạm đến công lý.
Tội ác,
nguy cơ tự căn cơ không những nơi việc quên lãng dấu tích ở chân ghi khắc tương
quan với Laios làm nên lý lịch nhân tính, nhưng còn do nơi hành vi làm lại lý
lịch của mình phát xuất từ sự quên lãng nầy.
Oedipe tìm cách
xa lánh điều bất chính bằng con đường tự đi đày, tự khắc kỷ, tự diệt thân với
cả lòng thành khẩn của mình ; Oedipe đã vận dụng tài trí để trả lời thách
đố của Nhân-sư, đem lại an bình cho Thành Thèbes ; Oedipe đã kêu gọi đến
thần thánh, cử Créon đi thỉnh ý thần Phoebos ở Pythô... Nhưng toàn bộ của nỗ
lực tự cứu của Oedipe là hành động của tự thân. Tự căn hành vi tự cứu là hành
vi giết Laios, biến Jocaste làm vợ mình, và đánh mất hôn nhân thật làm nên lý
lịch của con người. Thực trạng lâm nguy chính là con người mang nghiệp tự thân.
Chân lý cứu độ
là chân lý đưa con người ra khỏi tự thân và cư ngụ lại trong mối tương giao làm
nên lý lịch của mình. Chân lý ấy khai mở nơi cái chết của Jocaste, nơi Jocaste
là Mẹ Cronos có khả năng trả lại lý lịch thật cho Oedipe trong khổ là nỗi nhớ Laios. Khổ là nhớ, là khát khao, là tương giao
trong cảm thức xa cách.
Hơn một
lần chúng ta đã nhấn mạnh rằng đoạn văn ghi lại cái chết của Jocaste và cơn
giác ngộ nhận ra lý lịch của mình của Oedipe là đoạn văn trung tâm bản bi kịch.
Thời điểm ấy là thời điểm bên trên, bên ngoài... bất ngờ đến để soi dọi một ánh
sáng mới làm mù con mắt Vua – Oedipe, thời điểm treo thời con người hiểu biết lên
và giết thời cũ ấy đi. Nếu lấy hình ảnh
thời gian như là thực trạng biểu lộ tất cả các sinh hoạt con người, thì thời
điểm đóng khung trong hai cánh cửa khép chặt trên đây có thể hình dung như là
trung tâm, là thời không thuộc vào thời nào trên vòng tròn cả. Thời ấy là căn
nguyên và chung điểm ; nhưng nó không phải là điểm bắt đầu nào, cũng không
phải là điểm đến nào được xếp trong khuôn khổ thời gian của hiểu biết.
Oedipe
được cứu độ, Oedipe ở trong chân lý, con người căn nguyên và con người hoàn
thành không phải là kẻ ‘tự do’ không bị lệ thuộc vào ai để hưởng hạnh phúc nơi
tình trạng một mình làm chủ ; nhưng ngược lại con người được cứu độ, con
người ở trong chân lý là con người đi vào trong khổ của Mẹ Jocaste để được nối lại với Laios ‘đã khuất từ lâu’, với
những người khác quanh mình.
Oedipe Vua đã
không cần đến ai để thắng thách đố của Nhân-sư, đã là một vị chủ duy nhất làm
nền cho mọi sinh hoạt, biến tất cả những người chung quanh thành đối vật tùy
nghi vâng theo ý muốn, đáp ứng những dự phóng và hành động của mình ; thực
vậy đối với Oedipe thì Jocaste,
Tisérias, Créon..., ngay cả lời sấm của Thần Thánh nhất thiết phải hợp với tiền
kiến và ý chí quyền lực của mình. Thế giới Oedipe có vợ là Jocaste là một thế
giới đẻ ra muôn nghìn thế giới khác nhau tùy sức năng động của Dục (= ta muốn chỉ mình ta). Trong thế
giới ấy, thế giới của tự thân, không thể
có một ai khác để có một hôn nhân thật, một tương giao thật làm nên chân tính
con người.
Đối lại, Oedipe
giác ngộ, con người nhận ra lý lịch thật của mình là người được nối lại với hôn
nhân cũ tiếp cận với Thời làm trái ý mình (Cf. v. 1213, akonq ¢), Thời
không triển khai những chân trời đa dạng theo ý mình nhưng chấm dứt nghiệp ấy
khi treo nó lên để có thể hé thấy một chiều kích khác vượt qua tự thân .
Tiếp cận với Thời ấy, với khổ, Oedipe
‘giác ngộ’ nghe được âm vang từ bờ bên kia: « Bấy
giờ bà gọi Laios đã khuất từ muôn thủa »[55].
Và nơi âm hưởng của lời nầy, Sophocle cho thấy không những Oedipe được nối lại
với Laios, mà còn được nối lại với những kẻ bên cạnh ông như những con người khác ông và như ông :
trước cửa dẫn vào tiền đường của Thời cứu độ, Oedipe không những đã cần cảm ứng
của Thần Thánh mà còn nhận ra là mình cần đến những kẻ chung quanh khi van xin
họ giúp trao cho ông một vũ khí, nghĩa là chia sẻ với ông trong cuộc chiến tiếp
cận với Jocaste đang chết thân phận làm vợ mình và tìm lại thân thế làm vợ
Laios (Cf .1255-1258).
Tương
quan với Laios ‘đã khuất từ muôn thủa’ và với kẻ khác chung quanh mình làm nên
ý nghĩa của chân lý ; và tương quan đó chỉ có thể được tiếp nhận và hoàn
thành nơi khổ, nơi thời tính căn
nguyên.
Từ
nguyên sơ lúc Oedipe mới sinh thì nguy cơ lạc lầm và khổ cứu độ đã sớm ghi khắc
nơi bàn chân ; và lúc giác ngộ, bước hoàn thành nhân tính thì cũng là lúc
tiếp nhận Thời khổ để nối lại tương
quan với Laios đã khuất từ xa xưa : tư tưởng bi kịch Hy-lạp và đặc biệt là
tư tưởng của Sophocle trong bản bi kịch Oedipe
Vua không bao giờ tách rời chân lý với thời tính, và cũng không đề nghị một
lối cứu độ nào ngoài ‘chân lý gắn liền với thời tính nầy’.
· Nghĩa của nhân tính là phận vụ tham dự
cuộc chiến làm người
Đến đây
chúng ta tự hỏi : tư tưởng bi kịch Hy-lạp phải chăng chỉ nêu lên ý nghĩa
chân tính con người như một thân phận con người đầy bi thương bị chết ngộp nơi
vực thẳm giữa sự thật mà hiện tại mình không thể với đến và ảo tưởng mà mình
không thể thoát ra, để rồi dừng lại đó như một lý thuyết đi kèm với những
tĩnh từ có tính cách tiêu cực (như duy hư vô, yếm thế) mà văn chương triết học
thường sử dụng để xếp loại và đánh giá?
Câu hỏi nầy
được Sophocle nêu lên qua lời thắc mắc của ca đoàn , sau khi kẻ mang tin
thuật lại giây phút kỳ lạ của kẻ giác ngộ:
Chữ nay (nun)
ở
câu hỏi nầy của ca đoàn đi tiếp liền chữ nay
(nun) (Cf .1282-1285 ) đầy khổ đau của kẻ giác ngộ
mà người đưa tin, phát ngôn của chân lý loan báo cho cộng đồng con người. Câu
hỏi dấy lên phản ảnh sự chung đụng giữa hai chữ nay nầy, giữa thực tại con người và giây phút giác ngộ.
Ca đoàn
gợi lên một chữ nay tiếp sau một
khoảnh khắc giác ngộ trước đó như hai khoảnh khắc liên tục đi theo nhau trên
một đường thẳng, hoặc trên cùng một vòng tròn ; và sự nghĩ ngơi về lỗi lầm
của mình được ca đoàn hiểu như là đã trả xong nợ theo sự công bình vay trả của
các mối tương quan nhân quả nơi hiểu biết về sự vật.
Nhưng
trước câu hỏi nầy, người đưa tin không rơi vào bẫy như Oedipe đã bị Nhân-sư đã đánh lừa trước
đây ; thật vậy, tiếng nói của chân lý qua người đưa tin không đi vào sự
đồng hoá nghĩa hai chữ nay nầy vào
một nội dung chung, và cũng không đồng hóa ý nghĩa thi ca của khổ đau và lỗi
lầm với ngôn ngữ thông thường được nền công lý dựa trên nguyên tắc nhân quả sử
dụng. Hơn thế nữa người đưa tin đẩy lui ý nghĩa câu hỏi ca đoàn nêu lên đồng
thời đưa câu hỏi ấy vào cái nhìn của kẻ giác ngộ :
Người đưa tin : Ông ấy hét lớn để người ta mở cửa và làm cho tất cả con cháu Cadmos
thấy kẻ đã giết cha và đã biến mẹ mình...- những lời của ông quá ghê tởm, tôi
không thể nói lại được-. Ông ta nói ‘ như kẻ sẵn sàng tự đày mình ra khỏi
xứ, kẻ không thể cư ngụ nơi ấy, bởi vì chính ông đã tự buộc mình vào lời nguyền
ấy’. Tuy nhiên, ông cần có sự trợ giúp và hướng dẫn của một kẻ bên
ngoài...Người ta mở ngay chốt cửa [57].
Trong
câu hỏi của ca đoàn, khổ đau (tlhmwn) nơi cái chết
của Jocaste và nơi thân phận người mù Oedipe được hiểu như giá phải trả cho tội
ác (kakwn) và kết
quả đem lại là nay là sự cân bằng,
yên tịnh, không còn căng thẳng tranh chấp.
Nhưng
câu trả lời của người đưa tin là lời bất ngờ làm đảo lộn lối hiểu và nền công
lý con người. Oedipe hét lớn xin
người ta mở cửa và cho mọi con cái của Cadmos, mọi dân thành Thèbes thấy :
một âm vang từ bên kia bờ cánh cửa, tiếng thét của kẻ khổ đau mở ra một cái nhìn khác, một lối hiểu khác về
chân tính con người. Lời nầy không phát xuất từ hư không (hàm ngụ ‘chỉ mình ta với suy tư của ta mà thôi’) tự giải
quyết dứt khoát chân lý con người nơi tự thân ‘ ta làm nên ta’, của kẻ hiểu
biết lấy ý chí quyền lực của mình làm con đường đi cho mình. Lời nầy không
không dừng lại nơi khả năng hiểu biết, đo lường sự vật để tiếp cận ý nghĩa nhân
tính, biến kẻ khác thành đối tượng của hiểu biết sự vật, những đối tượng mà
mình có thể sử dụng như những dụng cụ cho những toan tính của mình. Lời nầy
không giúp Oedipe làm Vua của con cái Cadmos và hưởng hạnh phúc, an bình nơi
thành Thèbes.
Khổ của kẻ giác
ngộ là con đường khác với hạnh phúc của Vua Oedipe, đi ngược lại ý chí quyền
lực của con người muốn chỉ có mình. Nhưng
khổ ấy lại là sinh lực mới của một
Oedipe được tiếp nối lại tương giao với nguồn sống làm nên chân tính của con
người. Vì khổ được tiếp nhận như
nguồn sinh lực của một hôn nhân thật, một tương giao với tuyệt đối khác mình,
nên sinh lực ấy đồng thời bung ra với tất cả mọi người chung
quanh mình như một tiếng thét lớn.
Khổ không đến với
con người để đem lại hạnh phúc an nghĩ của một Oedipe Vua, nhưng từng giây phút
thúc giục con người « sẵn sàng đi ra khỏi quê hương Thèbes mình đang làm
vua », đẩy con người vào sự xung đột không dứt giữa tự thân và nỗi khát
khao chân lý : Oedipe, tên gọi tượng trưng cho con người ‘một mình’, tự
mình mang ánh sáng hiểu biết và bước đi trên đường đầy hoan lạc, hạnh phúc nay
phải xung đụng với một Oedipe lưu lạc xa quê, mù lòa đang nhờ người dẫn lối để
đi ăn xin.
Con người ở
trong chân lý là con người tiếp nhận khổ.
Nhưng khổ không những là ‘Cronos thấy tất cả, nhưng còn đánh trả lại ý của tự
thân và tố giác mê lầm của tự thân’ (Cf 1213). Tiếp nhận khổ (paqoz) gắn
liền với nghĩa (hqoz)[58] làm
người chiến sĩ hoàn thành nhân tính.
· Tự giác hay cứu độ ?
Nghĩa của
chân tính được hiểu như một nghĩa vụ,
một nỗ lực hoàn thành ngay nơi tác động chiến đấu của mình, như thế phải chăng
kỳ cùng cũng chính ta tự cứu lấy ta ?
Bản văn
Oedipe Vua đưa ra những động tác,
những câu nói hầu như tương tự, nhưng lại hoàn toàn đối nghịch và loại trừ nhau
liên quan đến nội dung của thắc mắc chúng ta gợi lên ; sự kiện đó cho thấy
nan đề nầy là nỗi bận tâm đặc biệt của tư tưởng bi kịch Hy Lạp.
Chúng
ta đã chứng kiến một Oedipe Vua xuất
hiện từ việc tự mình đi ra khỏi quê, tự lưu đày để sống trọn đạo làm người.
Nhưng thảm kịch tột cùng chính là thiện chí tối đa nầy của con người lại là
hành động cắt đứt nguồn của chân lý : con đường tìm đạo ấy gắn liền với
hành động giết Laios.
Nay,
hầu như mâu thuẩn với kinh nghiệm lần đầu, chúng ta lại chứng kiến một Oedipe
giác ngộ, khổ đau, mù mắt, nhưng cũng tự
lìa quê sống lưu đày để hành đạo !
Oedipe đã nghe
được tiếng nói của người say và của sấm ngôn làm cho mình khổ đau, Oedipe đã
thực thi tiếng nói lương tâm để tránh tội ác, đã nghe được lời nói của sấm
ngôn qua miệng Créon : « ...Tìm
thì gặp ; nhưng lơ đễnh thì mất »[59] và đã tận sức tìm
khi Thèbes bị lâm nguy.... Nhưng cái gì đã không ổn trong lời tự thú về sự bất
lực của thiện chí của mình và nghĩa
của chân lý cứu độ ? :
Oedipe : Nầy, đừng nói với tôi là điều tôi làm đã
không phải là điều tốt nhất mà tôi có thể làm được ! Chớ lên mặt dạy bảo
và khuyên lơn !’[60]
Tại sao
có lúc tìm thì không những không gặp mà còn đi vào con đường vô đạo, nhưng rối
có lúc sấm ngôn lại xác quyết tìm thì gặp ?
Chúng
ta trở lại cách đặt vấn đề ý nghĩa chân tính của con người nơi bản văn. Chân
tính ở đây được nêu lên như một thắc mắc về lý lịch của Oedipe. Lý lịch đó luôn
luôn liên kết với một cuộc hôn nhân, một giao ước, một tương quan.. Và điều duy
nhất Cronos tố giác đó là tương quan kỳ dị, tương quan giả (ton agamon
gamon) nơi thực tại
của con người hiểu biết. Tất cả những
gì nơi thế giới tương quan giả nầy đều là sự tráo đổi chân lý ; đó là ý
nghĩa chữ ø tất cả mà Cronos thấy
được khi nối lại tương quan thật trong nỗi nhớ Laios. Bản văn Oedipe Vua giải thích rõ thêm về sự
chuyển biến nơi tác động làm giả. Ýù nghĩa chân tính như một tương quan bị tráo
đổi nơi câu hỏi lừa bịp của Nhân-sư và nơi giải pháp dứt khoát của Oedipe. Bản
văn cho hay câu hỏi lừa bịp vì chỉ hạn chế nguy cơ trước mắt, mà quên nguy cơ
thật ; và câu trả lời[61]
của Oedipe cho Tisérias sau đó khai mở bước trật chân căn nguyên ấy. Theo câu
trả lời nầy thì nghĩa chân lý nay không còn là tương quan giữa Oedipe và
Laios (luôn khất bóng, vượt ra ngoài mọi
suy tư và chân trời ánh sáng hiểu biết của Oedipe) nhưng trở thành tác động của
một mình Oedipe. Tác động của một mình ta là mối tương quan giữa ta và sự vật
ta muốn, ta nhìn, ta biết. Thần thánh, con người và mọi vật đều bị biến đồi
thành những đối tượng đáp ứng ý muốn của một vị chủ đầy quyền uy Vua Oedipe. Tất cả những gì ngoài, khác
tương quan đáp ứng ý chí quyền lực đó của Oedipe đều đã được tiên liệu là không gì cả, là kẻ thù của chân lý được
tiền kiến là ‘một mình tự đủ cho mình’.
Trong
lần đầu Oedipe nghe được tiếng nói của kẻ say nhắc nhỡ đến lý lịch của mình,
Oedipe cũng lìa xa quê để lưu đày và thực thi nghĩa làm người. Nhưng quê
Corintô, cha mẹ Polype và Mérope...tất cả
đã là những đối tượng của cái nhìn của con người hiểu biết. Tất cả ấy đã ở
trong vương quốc Oedipe Vua, đã bị trói buộc bởi hôn nhân giả loại trừ bất cứ
liên hệ nào với Laios.
Trái
lại cũng một tác động là đâm mù mắt, lìa quê để làm kẻ hành khất lưu đày nơi xứ
lạ, nhưng sau khi tiếp cận Jocaste Cronos (được nối lại tương quan với Laios
qua nỗi nhớ), thì đây lại là đường đi của kẻ giác ngộ.
Thật
thế, bản văn nói rõ Oedipe « giựt
những kim bằng vàng găm áo của bà (Jocaste), đưa lên trên không và đâm chúng
vào lòng đôi mắt »[62].
Như
vậy, con đường sai lạc không phải nơi tác
động nào đó của Oedipe, nhưng do nơi tương quan giả, nơi tiền kiền tự thân
là chân lý. Khổ nơi Jocaste xóa đi
căn rễ của tự nầy, đưa tác động của
Oedipe vào lại mối tương quan với Laios.
Vì thế khổ cứu độ không thể
đến được với Oedipe khi đôi đường
(Laios cũng như Oedipe) không cùng tác động. Không bao giờ có khổ nếu Jocaste không bị treo lên và
chết, nhưng không bao giờ khổ đến với
Oedipe khi Oedipe không đưa mũi kim đâm vào mắt mình :
Oedipe :
Vâng, hởi bạn bè của tôi ơi, chính
Apollon gây cho tôi từ nay phải chịu những nỗi bất hạnh kinh hoàng và oan
nghiệt, từ nay đây là số phận của tôi.
Nhưng không bàn tay nào khác ngoài tay tôi đã đánh tôi, tôi nay là kẻ
khốn cùng ! [63]
Chữ tự giác với âm hưởng của lời xác quyết
của Oedipe Vua về hành động ‘tự tìm nhờ
tài năng của chính mình’ : ‘Và ta
Oedipe đi đến, thấy không có gì hết, và chỉ một mình ta, không cần biết đến
điềm mộng gì cả, ta bịt được miệng nó dựa vào tài trí của ta mà thôi [64], tự giác đó đã
tiền kiến chân lý là tự thân. Nỗ lực đi tìm để gặp, để tự giác sẽ dừng lại nơi Oedipe Vua, chứ không thể gặp khổ và tham gia vào khổ để nhận ra lý
lịch thật của mình.
Lời sấm qua miệng Créon nói với Oedipe : « ...Tìm thì gặp ; nhưng lơ đễnh
thì mất » (cf. 110-111) cũng là lời của kẻ đã ở trong Khổ, là chứng tá của kẻ đã gặp, của một
Oedipe khổ đau nhận ra thân thế của mình. Điểm chung cuộc đó là ‘Thời gian thấy hết, ngược với ý muốn của
ngươi đã khai lộ chân tướng’[65]. Thời gian
Jocaste Cronos, khổ căn nguyên nối lại tương quan làm nên nhân tính bị lãng
quên, thời gian ấy đã diệt tự thân ; và hành động của Oedipe đâm mù mắt
mình để tham gia khổ cứu độ và thấy lý lịch thật của mình nay phải được hiểu là
ở trong vùng đất trời của tương quan với Laios ‘đã khuất’. Hành động ấy nay
không còn bị chi phối bởi tiền kiến phải dựa trên Apollon hoặc trên Oedipe như
hai ông Vua Oedipe
biệt lập mỗi bên tự đủ cho mình.
Nên khổ cứu độ như sinh lực làm nên nhân
tính không thể không do Apollon và cũng không thể không cần đến nỗ lực con người.
[1] Ngoại trừ bóng dáng
quái vật Nhân-sư như một lời dụ dỗ bên trong thôi thúc bước chân lầm lạc của
con người hiểu biết, chúng ta thấy bối cảnh chung của toàn bản kịch là cuộc
sống của Thành Nhã Điển lúc bấy giờ.
[2] Các nhà viết sử Tây
phương thường gọi trào lưu nầy là phép lạ Hy-lạp
[3] Cf. v. 1364-1365,
Oedipe : ... S’il existe un malheur
au-delà du malheur, c’est là le lot d’Oedipe !
[4] J.P. VERNANT et P.
VIDAL-NAQUET, sd, tr. 101 : «Không loại thể văn nào thời Thượng Cổ dùng
nhiều thành ngữ song nghĩa hơn thể văn
bi kịch, và bản bi kịch Oedipe Vua có những lối nói nhị-trùng hai lần nhiều hơn
các bản kịch khác của Sophocle»
[5] Sophocle là bạn
Péricles, chứng kiến những thăng trầm của bạn mình, nạn chiến tranh và ôn dịch
của Nhã Điển trong thời kỳ sáng tác bản văn (Xem Robert PIGNARE in
Introduction, Théâtre Complet de Sophocle,
GF Flammarion, Paris ,
1964 « C’est Périclès, à travers ses
amis, qu’on vise. Au printemps de 431, prenant l’offensive sur me, Athènes
laisse ravager l’Attique. Et cela recommence l’année suivante. Dans la ville
aux rues tortueuses et sales, encombrées de réfugiés, la peste se déclare,
Périclés doit se démettre, comdamné à son tour pour détournements... »
tr 10 ; in notes « L’épidémie de 430 a pu suggérer au poète
l’idée de son pathétique prologue et de son chant d’entrée du choeur »
tr 341
[6]J.P. VERNANT et P.
VIDAL-NAQUET, Sd. tr. 105 :
[7] Xem PLATON, Apologie de Socrate, 29, d-e
[8] Cf. v.1400-1401,
Oedipe : ...vous qui avez bu le sang
de mon père versé par mes mains..
v.1186 – 1188, Le Choeur : Générations
des mortels, c’est néant, à mes yeux, que votre vie.
[9] cf. v. 397-398
[10] v.713-714,
Jocaste : ...l’enfant une fois né,
trois jours ne s’étaient pas écoulés, que déjà Laios, lui liant les pieds,
l’avaient fait jeter sur un mont
désert’...
[11] v. 436,
Tisérias :...J’étais sage aux yeux
de tes parents.
[12] v. 450 –456, Tisérias:
Le meurier de Laios que tu recherches
..esi ici même....il mendiera et, tâtant sa soute devant lui avec son bâton, il
errera en terre étrangère...
[13] 1394-1395,
Oedipe : Ô Plolype, ô
Corinthe, ô vieux palais que j’appelais paternel, quelle plaie secrète recelait
cette belle jeunesse que vous avez nourrie !
[14] v. 14
[15] v. 903
[16] v. 48
[17] v. 132
[18] v. 374-375, Oedipe – Tu ne vis que de ténèbres : comment
donc me pourrais-tu nuire, à moi, comme à quiconque voit la carté du
jour ?
[19] v. 1186-1188, Le
Choeur : – Pauvres générations
humaines, je ne vois en vous qu’un néant !
[20] v. 1397
[21] v. 1397
[22] v. 1306
[23] v. 1415 : Mes mots à moi, il n’est point d’autre
mortel qui soit fait pour les porter
[24] v. 1345
[25] v. 455-456, 1529
[26] J.P. VERNANT et P. VIDAL –NAQUET, Mythe et tragédie en Grèce ancienne ,
tr. 110
[28] Ngôn ngữ Trung hoa và Việt nam khi dùng chữ
‘nghĩa’ để nói về con người thì luôn được hiểu lắ điều phải chu toàn để hoàn
thành nhân tính, là đạo làm người.
[29] v. 879-880,
[30] v.1398, Oedipe : Ô, triple chemin !..
[31] v. 800- 813
[32] Cũng vào thời đại nầy,
những bậc thầy của truyền thống văn hóa Trung Hoa , như Lão Tử, Khổng Tử, cũng như một hiền
nhân khác của vùng đất Ấn độ, Đức Tất Đạt Đa cũng nhắc nhở con người nhận ra sự
xa cách làm nền tảng cho bước đi làm người của mình.
Thật thế, mở đầu sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử ta đọc được
những lời khai mở sự cách biệt nền tảng đó :
« Đường mà con người (tự làm ra để) bước đi được thì
không phải là Đường chân thực,
« Tên mà con người (tự nơi lời nói của mình)
gọi được thì không phải là Tên chân thực».- Đạo Đức Kinh, ch. I
Khổng Tử , người được
xem là kẻ san định lại Kinh Thư đã nhắc nhở :
« Tâm con người thì nguy, mà Tâm Đạo lại tinh
tế... »
« Đạo không hề xa con người một giây phút, nhưng con
người có thể xa Đạo và con đường đó đó là không phải Đạo....Nên người quân tử
phải lưu tâm đến cái mình không thấy, và phải sợ điều mình không nghe
được »
Nơi Đức Tất Đạt Đa,
chúng ta nhận ra nơi con gường tìm Đạo và ngộ Đạo như hai con đường khả dĩ của
thân phân làm người nơi dương gian. Con đường tìm đạo ở giai đoạn đầu với chủ
tâm đồng hóa Tiểu Ngã với Đại Ngã, và con đường gặp hay ngộ Đạo. Ở đoạn đường
đi tìm Đạo, Ngài tự đi xa người vào rừng vắng, ép xác để diệt dục, nhưng con
đường đó đi đến ngõ bí. Con đường thứ hai là gặp gỡ, nơi ấy Ngài được chiếu
sáng : cảm thức khổ căn nguyên là thời tính xuất hiện làm nên chân tính
con người tại thế. Tư tưởng trong Phật học là tỉnh thức để nhận ra sự cách biệt
giữa hai con đường tìm và gặp, của Dục căn nguyên làm nên tự thân và Khổ gắn
liền với nhu cầu cần được giải thoát.
[33] v.713-714
[34] v.713-714,
Jocaste : L’enfant une fois né,
trois jours ne s’étaient pas écoulés, que déjà Laios, lui liant les pieds,
l’avait fait jeter sur un mont
désert.
[35] v. 779-780, Oedipe ...Dans l’ivresse, un homme m’appelle ‘enfant
supposé’
[36] v. 791-793
[37] Cf. v. 800-813
[38]: v. 435-439
[39] v. 130-131
[40] v. 59-60
[41] Cf. 70
[42] v. 1195-1203
[43] v. 397 , Oedipe :
Moi, Oedipe , ne voyant rien....
[44] v. 1186-1188
[45] v. 872-878,
[46] v. 297-299,
[47]v. 320-321
[48] v. 327-328
[49] v. 333
[50] v. 345- 349
[51] v. 369
[52] v. 356
[53] v. 362
[54] v.59-64
[55] v. 1245
[56] v. 1286
[57] v. 1287-1295
[58] Ngôn ngữ của Trung Hoa cũng dùng chữ nghĩa
hàm ngụ vừa là sự biểu lộ chân tính của con người, vừa là bổn phận con người
phải chu toàn để hoàn thành nhân tính. Những truyền thống tư tưởng với nội dung duy nhất là thắc mắc về
nghĩa nầy sẽ đột nhiên biến mất trong truyền thống triết học, đúng hơn là chỉ
được đánh giá như là những nhận xét về cách cư xử của con người thường được gọi
là phép tắc đạo đức. Xem Aristote, Métaphysique A, 6, 987 b 1-2 :
« Socrate với những nội dung ưu tư cho những việc đạo đức, chứ không lý
đến Bản chất một cách toàn bích ... »
[59] v. 110-111
[60] v. 1369-1370
[61] Cf. v. 397-398
[62] v.1268-1269
[63] v. 1329-1333.
[64] v. 397-398.
[65] v.1213.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét