Chương IV
Ý nghĩa nhân tính trong văn hóa
Cổ Hy lạp
Những nền văn hóa còn tồn
tục và chi phối nếp sống thế giới chúng ta hôm nay có nhiều điểm trùng hợp kỳ
lạ. Thật thế, những trực giác khai sinh ra chúng đều mang một nội dung duy
nhất: vấn đề ý nghĩa nhân tính. Và về
thời điểm, các nền văn hóa nầy hầu như cùng xuất hiện vào một thời mà triết gia
Karl Jaspers gọi là thời trục (từ
khoảng thế kỷ thứ VII trước công nguyên đến thế kỷ thứ V trước công nguyên).
- Văn hóa Hy lạp: Thời Bi Kịch Hy lạp [Eschyle (- 525/-457)- Prométhée bị trói, Sophocle (-496/-406)
– Oedipe-Vua; các nhà tư tưởng
Héraclite (-544/-480), Parménide (-510/…), Socrate (- 470/-399)…
- Văn
hóa Trung hoa : Lão Tử
(khoảng -VI) ; Khổng Tử (-551/-479).
- Đức
Phật (- 563/-483) và truyền thống Phật giáo.
- Truyền
thống Thánh Kinh Do-thái giáo và Ki-tô giáo : Thời các Tiên tri (khoảng
thế kỷ IX đến –V), các Bản Thánh Kinh được ghi chép (khoảng –VII đến –V).
Để có một ý niệm về nội dung trực giác duy nhất
của tư tưởng, của văn hóa theo các vị thánh hiền nầy, chúng ta nêu lên đây một
số dấu tích nơi những nền văn hóa còn tồn tục.
1. Các nhà tư tưởng Bi kịch
Hy lạp
Các nhà tư tưởng Bi kịch Hy lạp, đặc biệt Eschyle và Sophocle trong
hai bản kịch Prométhée bị trói và Oedipe-Vua, là những chứng cứ hùng hồn về vấn đề nhân tính như là ưu tư duy nhất của văn hóa. Hai nhà nghiên cứu Jean-Pierre Vernant và Pierre Vidal-Naquet đã đưa ra
nhận xét chính xác như sau trong tác phầm Myhte et tragédie en Grèce ancienne :
« Người ta có thể luận
chứng rằng … Bi kịch Hy lạp xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ –VI khi lối nói thần
thoại không còn tác dụng trên thực tế chính trị của Thành phố nữa…Trong bối
cảnh mới của Bi kịch, vai người hùng không còn là một mẫu mực để nêu
gương sáng; nhưng nó đã trở thành một vấn đề cho chính mình và cho kẻ
khác… ».[1]
« Trong nhãn quan Bi kịch,
người và sinh hoạt con người không được trình bày như những thực tại mà ta có
thể định nghĩa hay mô tả, nhưng như những vấn nạn. Những nội dung nầy được xem
là những ẩn số mà ý nghĩa song mang của chúng không bao giờ có thể thiết định
và thấu triệt nổi. »[2]
Qua
bản kịch Prométhée bị trói, Eschyle nêu lên cuộc chiến
bi thảm làm nên đạo lý con người. Cuộc chiến làm người, cuộc chiến đem lại ý
nghĩa cho nhân tính ấy được mô phỏng qua hai khuôn mặt, hai lý lịch mâu thuẩn
của Prométhée :
-
Một Prométhée ăn cắp lửa của Trời Cao, đánh
tráo nguồn ánh sáng liên quan đến sự hiểu biết về ý nghĩa nhân tính và dẫn đưa
con người vào đường lầm lạc. Prométhée nầy chỉ biết nguy cơ ‘trước mắt’ của con người nơi khổ đau
thân xác - sinh, lão, bịnh, tử-, và tìm cách cứu con người bằng con đường hiểu
biết, bằng khả năng làm nên xã hội văn minh, kỹ thuật, bằng việc tôn vinh thần
thánh[3] theo ước muốn và
trí tưởng tượng của mình đi kèm với những phù phép, nghi lễ linh tinh ..., nhằm
tạo ra những hy vọng hão huyền[4]. Con đường nầy gọi
là Τέχνη (là Vi trong Đạo Đức Kinh, là Karma trong ngôn ngữ nhà Phật, là Tài theo lối dùng chữ của Nguyễn Du, là Ta tự làm ra Ta). Con đường nầy là con
đường mà thiên hạ (Xem chương II Đạo
Đức Kinh), tức là chúng ta trong nghiệp
chết mất nhân tính hoặc quên lãng
lý lịch của mình, đang đi.
- Nhưng còn có một
Prométhée khác, Prométhée con của Thémis (Công Lý), chứ không phải Prométhée ăn cắp lửa vốn
là con của Gaia (Thổ địa) tự nhận là Thémis. Prométhée nầy chia
sẻ khổ đau cùng nàng trinh nữ Io (hình ảnh của nhân loại nguyên sơ vô
tội). Khổ đau nầy liên quan đến Κρόνοζ là Thời riêng của
nhân tính. Κρόνοζ là Thời mà con người không nhận ra, vì con người bị nghiệp
lầm che mờ đã giản lược vào thời gian vũ trụ, thời gian của « sinh,
lão bệnh, tử ». Khi được cư ngụ nơi
Κρόνοζ, Thời của nhân tính, nàng trinh nữ Io và Prométhée sẽ khổ,
vì « từ bên kia bờ » (Eschyle gọi là từ bóng đêm đối chiếu với ngày của
lửa ăn cắp) Đấng Siêu Việt luôn cháy lửa yêu thương và muốn đêm ngày sống
chung cùng giường với nàng để mối liên kết Trời-Người, là hôn nhân (Гάμος) làm nên sức sống mới
của nhân tính[5], được khai sinh. Nàng
Io và Prométhée con của Thémis (Công Chính) khổ vì phải chết đi thân phận lầm
lạc cũ, thân phận tự mãn, cô đơn không tương giao với Ai Khác. Họ khổ vì, nơi nhân tính mới được hình thành
trong mối tương giao mới, Đấng Siêu Việt đến với con người luôn vượt lên tài
sức hiểu biết và đo lường của con người. Và từ Lửa Trời, từ tình yêu siêu việt
của Ai Khác bên kia bờ đến với mình, nay con người được nối kết với con người,
- Prométhée nối kết với Nàng Io-, qua
mối thông giao Nguồn Khổ là sinh lực mới của nhân tính. Sinh lực mới nầy giúp
người con của Thémis hoàn thành nhân tính trong cuộc chiến với Hermès, sứ thần
của thế giới ảo tưởng (của lửa ăn cắp), và kiên cường cư ngụ nơi Nguồn Khổ của Κρόνοζ, Thời của nhân tính (Xem phần kết Bi kịch nầy của Eschyle).
Sức
sống văn hóa nay là cuộc chiến làm người
giữa hai Prométhée, giữa Τέχνη (Tài) và Μοϊρα (Mệnh), hai thân phận mâu thuẩn của nhân tính.
Qua kịch bản Oedipe-Vua, Sophocle lại đưa cuộc
chiến làm người nầy đến mức rốt ráo hơn nữa. Ca đoàn trong Bi kịch gọi đây là
cuộc chiến kỳ diệu (ἀπόλεμος ὅδε γ´ὁ πόλεμος
)[6]. Nó không còn được diễn tả gián tiếp như trong bản kịch của Eschyle,
nhưng đây là cuộc vật lộn nêu đích danh hai bộ mặt, hai lý lịch của nhân
tính :
-
Một bên là Oedipe, - homo sapiens-, con đường (Πους = chân) của người hiểu biết (Oĩδα = biết, thấy) có hai mắt mở toang ra nhìn dưới ánh sáng của trí năng,
của khả năng đo lường sự vật, chế ngự được thời gian và thân xác. Nhờ khả năng
hiểu biết sự vật nầy, con người tạo ra cho mình một thế giới những ý tưởng trừu
tượng, phổ quát, không đổi thay, « không chết ». Con người nầy tự
định nghĩa nhân tính của mình như kẻ nắm ánh sáng hiểu biết trong tay[7],
biến thần thánh, con người, và mọi sự trên trời dưới đất thành những đối vật mà
mình là chúa tể có khả năng chế ngự, thành những dụng cụ cho quyền năng thống
trị duy nhất của mình. Trong thế giời của con người làm chủ tuyệt đối ấy[8],
không có thần, không có người, chỉ có đối vật. Người hiểu biết nầy được mô tả
là mất thần, vô thần (Νῦν δ´ ἄθεος μέν εἰμ´)[9], hay sát thần. Thay vì làm Prométhée
ăn cắp ánh sáng của Trời, làm người vẽ bày thần tượng theo ý mình rồi cắm
đầu chạy theo thần tượng ấy như bi kịch của Eschyle gợi lên, nay người hiểu biết Oedipe trong bi kịch
Sophocle lại tự tuyên dương chính mình là
ánh sáng (ἐγὼ φανῶ), là cha đẻ ra nhân tính của mình. Trên đường
đi tìm Đạo bằng đôi mắt mở toang, chính Oedipe giết Nguồn ẩn kín ban cho mình
lý lịch làm người (cha ruột Laios), rồi ngồi vào ghế của Vua Cha, và lấy cả Mẹ
ruột Jocaste làm vợ. Mẹ Jocaste, Nguồn tình yêu ấy của Cha mình, là Thời[10]
đưa mình vượt lên trên thân phận các sinh vật trong vũ trụ, nay bị người hiểu
biết homo sapiens giản lược thành
thời gian của thế giới tự nhiên mà mình có thể chế ngự (thành vợ) để sinh ra
muôn ngàn ý niệm về người, muôn ngàn định nghĩa nhân tính dị dạng[11],
rợp khôn theo ý thích và tưởng tượng của trí khôn.
-
Nhưng gắn liền với một homo sapiens Oedipe mất thần đó (ἄθεος), còn có con người linh-ư-vạn-vật, một Oedipe mang dấu tích
KHỔ ở chân do người Cha ẩn kín Laios ghi khắc[12]
nhằm giúp con người mang nghiệp lạc lầm nhận ra nhân tính hay lý lịch siêu việt.
Thật thế, tên gọi Oedipe có nghĩa là bước chân ‘người tài trí’ homo sapiens (Oĩδα), nhưng đồng thời
cũng có nghĩa là ‘người mang thương tích khổ đau ở chân’ (Οἰδί - Οἰδαλέος). Trong
thân phận tại thế lạc lầm của Oedipe,
Nguồn Khổ là Mẹ Jocaste, hiện thân cho Lửa Trời, cho tình yêu của Cội Nguồn
Siêu Việt ẩn kín Laios, cho nỗi Nhớ Laios[13].
Nguồn Khổ Jocaste nầy là Thời mới, là Mẹ tái sinh một nhân tính chân thật được
nuôi dưỡng bằng mối tương giao với Cội
Nguồn thần thánh. Mối tương giao căn nguyên làm nên nhân tính được Sophocle
gọi là hôn nhân (Гάμος) giữa con người và Người Cha ẩn kín. Chính
mối tương giao mới nầy (chiều kích Trời, chiều kích thần thánh của con người) sẽ
tố giác sai lầm[14] của con
người, khi con người dựa trên mối tương giao giữa ‘chồng Oedipe’ và ‘vợ
Jocaste’ (giữa con người và thiên nhiên bên ngoài, mối tương giao mà ta thường
gọi là lý trí, là thước đo Đất) để định
nghĩa nhân tính. Trong mối tương giao mới làm nên nhân tính, Thần và người
chung quanh mình luôn là Kẻ Khác và
những người khác, theo nghĩa là siêu
việt, vượt lên trên mọi hình thức đo lường của tài trí con người. Nhân tính
không còn bị tiền kiến là một bản thể bất biến và cô đơn tự mãn, một chủ thể chế
ngự những đối vật trong thế giới ý tưởng (ý thức hệ) do mình tạo ra nữa ; nhưng nay là mối tương
giao giữa người với Kẻ Khác và với những người
khác, mải mải là khác mình nhưng luôn nối kết với mình. Khi đưa tay lấy
kim găm trên áo Mẹ Jocaste, là Nguồn Khổ - Nỗi Nhớ
Laios-, để đâm vào mắt chính mình hầu tiếp nhận Nỗi Nhớ Nguồn, Oedipe thông dự
vào Ánh sáng mà đôi mắt mở toang của trí khôn
luôn bất cập, thông dự vào Ánh sáng ‘từ bên kia bờ’ mà đôi mắt mù của tiên tri Tirésias, kẻ phát
ngôn Chân Lý và am tường lý lịch thật cũng như tội ác của Œdipe, là tượng trưng. Và trong Nỗi Nhớ đến từ Nguồn Khổ nơi Mẹ Jocaste, Oedipe không
còn nhìn những người dân Thành Thèbes là thần-dân, là đối vật ‘dùng’ cho quyền uy hiểu biết của mình.
Nhưng nay họ là những con người, những « người khác » giống mình,
cùng mình chia sẽ Nỗi Nhớ Nguồn, và nối kết với mình để cùng nhau hoàn thành
nhân tính chung trong Nỗi Nhớ căn nguyên nầy (Xem phần hai của Bi kịch).
2. Tư tưởng thi ca
của Héraclite và Parménide
Nhân
tính gắn liền với hai thân phận căn nguyên
- vừa có thể chết mất vì mê lầm bởi Tài
mà mình hiện mang vào thân,
- lại vừa có thể được Mệnh là
Khổ cứu độ để thức tỉnh và tìm lại lý lịch ẩn kín của mình,
nên con đường hoàn
thành nhân tính, hoặc còn gọi là Đạo làm người, là một cuộc giao tranh thần thánh, một cuộc giao tranh mà không vị thánh
hiền đông tây, cổ kim nào lại không cảm hứng và không xem đó là cốt lõi của văn
hóa.
Sophocle
ca ngợi cuộc giao tranh thần thánh ấy như sau :
Ca đoàn : « Đây là
cuộc chiến vinh quang đem lại sự sống cho dân nước, xin Trời đừng bao giờ để nó
phải ngưng nghỉ.- Τὸ καλῶς δ´ ἔχον πόλει πάλαισμα μήποτε λῦσαι θεὸν αἰτοῦμαι· »[15].
Thật
thế, bên trên lối nhìn của nhà tư tưởng
‘đo đất’ Aristote từng mô tả
Héraclite, Parménide, Socrate là những nhà hiểu biết truy tìm bản thể của các
sự vật (physiologues), một lối nhìn
được truyền thống triết học lặp đi lặp lại, chúng ta có thể gặp được nơi các hiền
nhân Hy lạp nầy những cảm hứng thi ca đến từ bên kia bờ mặc khải nội dung duy
nhất, đó là vấn đề ý nghĩa nhân tính và đạo lý làm người nơi cuộc chiến vinh
quang. Họ không truyền đạt gì khác hơn ngoài những cảm hứng mà các nhà tư tưởng
Bi kịch đã gợi lên.
Héraclite
đã mở đầu cuốn sách của mình bằng câu : « Λόγος (Lý, Tương giao) người ta/ mải mải/ không thể
biết được - (τοῦ δὲ) λόγου τοῦδ᾽ ἐόντος (ἀεὶ) ἀξύνετοι γίγνονται
ἄνθρωποι)’».[16] Đây là câu tóm kết toàn bộ tư tưởng của
Héraclite[17], một câu nói mà truyền thống
Tây phương xem như viên đá xây dựng nền móng văn hóa và tư tưởng.
Nhưng đây cũng là viên đá
làm vấp ngã. Và vấp ngã như thế vốn là nghiệp chướng của bất cứ nền văn hóa
nào, vì văn hóa vốn gắn liền với thân phận ‘có thể lầm lạc tự căn’ của con người.
Vào giai đoạn hai của tư tưởng
của Platon, còn gọi là thời xây dựng hệ thống triết học, và nhất là trong các
tác phẩm của Aristote, Λόγος được hiểu là lý (ratio, la raison), là sợi giây nối kết
hay sức sống của vũ trụ và đồng thời cũng là khả năng am tường của con người về
lý ấy. Với ý nghĩa nầy của Λόγος (lý), con người nhận ra mình là chủ vũ trụ[18]
và định vị lý lịch được xem là cao cả của mình. Con người đo lường được vũ trụ
và từ đó cũng đo lường được lý lịch của mình dựa vào cùng một lọai thước đo. Con người như thế thường được gọi là con người có lý trí hoặc con
người hiểu biết (homo sapiens).
Cũng vì thế Aristote gọi các nhà tư tưởng tiền-Socrate là những nhà vật lý (physiologue, physicien) hoặc là những
nhà thâm cứu về nguyên lý của vũ trụ. Và từ đó, với ánh sáng của người hiểu biết
chỉ thấy được tương giao con người và vũ trụ - tương giao mà Sophocle gọi là
hôn nhân dị dạng (ἄγαμον γάμον) giữa Oedipe và Jocaste -, Λόγος
của hiền nhân Héraclite bị giản lược thành lý
trí, thành thước đo đất. Héraclite
nay trở thành một nhà ‘đo đất’ (géo-mètre) chập chững đi vào khoa học về
nguyên lý vũ trụ, như lời đánh giá minh nhiên của Aristote trong quyển đầu của
tác phẩm Siêu Hình Học (Métaphysique)[19].
Nhưng bên cạnh một Héraclite
bị biến thể thành nhà « đo đất », những tác phẩm đầu của Platon[20]
còn cho biết có những nhà tư tưởng thi ca Cổ Hy Lạp, trong đó có Héraclite, chỉ
ưu tư về thân phận con người, chứ không màng kiến thức nào khác (rien de trop). Và Λόγος nêu lên ở đầu câu
và đầu tập sách của Héraclite là mối tương giao làm nên nhân tính như Eschyle,
nhà tư tưởng đương thời với ông, đã gợi lên qua chữ Гάμος (và
Sophocle sẽ dùng lại). Λόγος cũng là Гάμος,
là tên gọi nhân tính chân thật được kết dệt nơi hôn nhân
giữa Đấng Siêu Việt (Zeus trong đêm) và nàng trinh nữ Io. Λόγος, Lý cao cả, Tương giao
kỳ bí, không phải là lý (la raison) được hiểu là khả năng hiểu sự
vật hoặc là lửa của Prométhée, tên đánh
tráo Lửa từ Trời. Ngược lại, « bên kia bờ » của thước đo đất, của ánh
sáng hiểu biết con người và của thời gian vũ trụ đang đổi thay, Λόγος là mối Tương giao của Sấm Sét[21],
của Lửa Trời bất ngờ đến với con người. Tương giao mới nầy
đốt
cháy và tiêu hủy ‘con người được định nghĩa trong khuôn khổ ánh sáng đo đất’
thành tro bụi, và thổi vào con người một thần lực[22]
mới, nâng con người siêu vượt lên trên vũ trụ (linh ư vạn vật).
Với trực giác về Λόγος
đến từ Trời, con người nhận ra mình mang hai thân phận gắn liền với hai lý lịch,
hai ý nghĩa về « lý », hai
tương giao mâu thuẩn loại trừ nhau[23].
Nay con người được đưa vào cuộc chiến (Πόλεμος)[24]
để hoàn thành nhân tính, một cuộc chiến vượt lên trên tất cả những tương phản
trong thiên nhiên và những biện chứng phát xuất từ nhận thức con người. Chính
cuộc chiến thần thánh nầy gây cảm hứng cho tư tưởng Bi kịch Hy lạp, và đó cũng
là nội dung duy nhất nơi Đạo lý của các thánh hiền cổ kim đông tây.
Song
song với Héraclite, thi hào Parménide, một cột trụ khác của văn hóa Cổ Hy lạp
cũng không tuyên dương gì hơn ngoài Đạo lý làm người được trực giác như là cuộc
chiến giữa hai thân phận mâu thuẩn gắn liền với nhân tính. Và y như trường hợp
của tư tưởng Héraclite, Bài Thơ của
Parménide, vốn là trực giác con người là
ai, vốn là tư tưởng ‘thi ca hướng đến mặc khải về nhân tính’, thì cũng đã bị lịch sử văn hóa biến thành một
bản lược khảo về hữu thể, - một hữu thể được giải thích là bản chất mọi sự vật
dưới quyền uy của lý trí hiểu biết, của khả năng đo đất-. Nói cách khác, từ một
thánh hiền Parménide trong văn hóa Cổ Hy lạp, nay truyền thống triết học (đặc
biệt từ Aristote) đã giáng xuống thành nhà vật lý (physiologue) truy nguyên nền tảng muôn vật trong vũ trụ. Từ cuộc
chiến thần thánh làm người giữa hai tương giao mâu thuẩn loại trừ nhau mà các nhà tư tưởng
Bi kịch cũng như Héraclite đã trực giác được, nay, với
tiền kiến về ý nghĩa nhân tính nằm trong khả năng đo lường sự vật, nó lại bị
thái hóa thành cuộc xung đột giữa một bên là bản thể thường hằng (permanent) và khả tri (intelligible) của mọi vật[25],
và bên kia là thế giới khả giác (sensible)
và đổi thay (changeant) tùy thuộc vào
không gian và thời gian.
Bài Thơ của Parménide thật sự bắt đầu bằng những hình ảnh cuộc gặp gỡ giữa các con gái của Mặt Trời (Ἡλιάδες)[26] với
con người, để con người gặp (ngộ) được ánh sáng mới (εἰδότα φῶτα) [27]
và được đưa qua « bên kia bờ », vượt qua trí năng hiểu biết (βροτῶν δόξα)[28] sự vật.
Dẫn
nhập Bài Thơ của Parménide cũng là
một định nghịa về ý nghĩa thi ca trong tư tưởng các thánh hiền xưa. Trong giai
đoạn tư tưởng thi ca của Platon, đặc biệt trong Đối thoại Ion, ta đọc lại được nội dung những câu thơ nhập đề của Bài Thơ Parménide qua lối diễn tả hùng
hồn của Socrate :
« Không phải do tài năng
nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do cảm hứng từ một quyền năng của
Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu loát như người ta thường làm
được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi ca cũng chỉ là một bộ môn nào
bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý trí con người để dùng họ
làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những tiên tri của Trời. Nhờ thế khi
nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được rằng không phải do chính
tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi lẽ lúc ấy họ đã bị tước hết
tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần chuyển lời của Thần đến với
chúng ta qua trung gian các thi sĩ !... »[29].
Trong
Sách Luận Ngữ (XVI, 13), Đức Khổng, người đương thời với các
nhà tư tưởng Cổ Hy lạp cũng nói rất cô động thế nầy để dạy con là Bá Ngư :
« Bất học Thi, vô dĩ ngôn (Không
học Thi, không lấy gì để nói.»
Nhưng
Thi ca nói về nội dung nào đây mà con người cần phải được Thần đưa qua
« bờ bên kia » mới lên tiếng và nói được ? Không phải con người
đã có thể biết được sự vật và gọi tên, phân biệt được vật nầy với vật kia hay
sao ?
Kỳ
thực, khi nói đến Thi ca, các vị thánh hiền, các Kinh Sách các tôn giáo…, hẳn
không phải ghi lại lời ca ví von diễn tả vũ trụ hay một xúc động bất kỳ nào đó
của con người. Nhưng Thần Thi chỉ cảm hứng một nội dung duy nhất, đó là ý nghĩa
nhân tính. Trong bối cảnh nầy, Bài Thơ của Parménide cũng chỉ ghi lại
cảm hứng độc nhất là mặc khải ý nghĩa nhân tính nầy. Và những từ ngữ chỉ đạo như tư tưởng (νοεῖν), nguyên tính (εἶναι)[30] trong
Bài Thơ cũng chỉ trực tiếp nói đến
nhân tính mà thôi, chứ không hề mô tả nguyên lý hay bản thể nào của các sự vật.
Con người giác ngộ (εἰδότα
φῶτα), tư tưởng (νοεῖν), nguyên tính (εἶναι) cũng là nhân tính duy nhất,
nhân tính trong mối tương giao với Kẻ Khác, nhân tính được soi sáng bởi Mặt
Trời bên kia bờ. Vì thế, những thành ngữ ấy không có nội dung nào khác hơn Λόγος của Héraclite, hay Гάμος của Eschyle và
Sophocle.
Nhưng
con người cũng là con người đang được soi dọi bởi ánh sáng hiểu biết (δόξα) của bên nầy bờ[31]
và đang ở trong ‘Ngày Hôm Nay’ của người mất đi hơi thở Thần thánh[32]
như lời thú nhận của Oedipe trong bản Kịch của Sophocle. Dưới ánh sáng nầy, với
thước đo của hiểu biết con người để tự định nghĩa nhân tính, mỗi người đã đẻ
sinh ra vô số lý lịch[33]
sai lạc về mình. Và những con đường phát xuất từ những nhân tính giả tạo nầy là
vòng quay của bến mê : « Tất cả
= βροτοὶ εἰδότεζ οὐδέν = những con người ở trong cõi chết đó, những con người không ngộ được
ánh sáng bờ bên kia) không miễn trừ ai, con đường họ đi là bến mê không lối
thoát - πάντων δὲ παλίντροπός ἐστι
κέλευθος.»[34].
Kỳ
cùng, Văn hóa, Đạo lý hay Tư tưởng cũng chỉ cô động trong một nội dung duy nhất
là tham gia cuộc chiến làm người, - cuộc chiến phát xuất từ hai thân phận luôn
gắn liền với nhân tính-, cuộc chiến[35]
giữa nguyên tính (εἶναι – l’être), một lý lịch người được Thần (Δαίμονος)[36] soi sáng và thổi hơi vào ban sự sống (εἰδότα φῶτα)
và một lý lịch người có khả năng làm ra muôn biến thể dị dạng, muôn ảo tưởng (μή έόντα – les non-êtres) về
nhân tính theo ý thích và theo khả năng đo lường sự vật của mình.
3. Tư tưởng Socrate
Cuộc chiến làm người mà các nhà Bi Kịch, các nhà tư tưởng Héraclite, Parménide
nêu lên trong các kịch bản, trong thi ca…, thì với Socrate, nó lại được làm
chứng, không những qua lời giảng dạy mà vị hiền nhân nầy chia sẻ, nhưng qua
chính cuộc sống và cái chết của ông. Socrate là hiện thân của một Prométhée
(xem Prométhée bị trói của Eschyle)
bị cột buộc vào hai thân thế, vừa là con của Gaia (Đất) tự nhận là Thémis (Công
Lý)[37]
lại vừa là con của Thémis. Socrate ấy cũng là kẻ tham gia cuộc chiến giữa hai
lý lịch Oedipe. Một bên là Oedipe « đo đất », lấy chính Mẹ mình là
Jocaste làm vợ và đẻ những ý hệ, những ảo tưởng về nhân tính, những mẫu người
dị dạng ; và một bên là Oedipe nhận ra Thời riêng của con người, nối lại
với Khổ nơi Mẹ Jocaste là hiện thân Nguồn Nhớ Laios, Cha nguyên thủy dấu mặt
nhưng ban cho Oedipe lý lịch căn nguyên.
Cuộc
chiến đó, không những là cuộc chiến mà Socrate đã chứng nghiệm nơi bản thân như
lời tự thú của ông trong L ời biện hộ[38]
trước tòa án Nhã Điển; nhưng hơn thế nữa, nó còn phản ảnh nơi vận mệnh văn hóa
nhân loại qua hai lối trình bày lý lịch Socrate mâu thuẩn nhau xuyên qua những
tài liệu viết về ông. Hai lý lịch mâu thuẩn đó không phải do những kẻ đối đầu
với Socrate xuyên tạc và bày chuyện viết ra, nhưng do chính Platon, người đồ đệ
và cũng là chứng nhân trực tiếp và đáng tin cậy nhất của Socrate, ghi lại.
Thật thế, trong các tác phẩm vào giai đoạn đầu của Platon, chúng ta có
một thánh hiền Socrate thuộc giòng tư tưởng bi kịch và thi ca, một Socrate đối
đầu với những người đương thời tự cho mình tài trí, hiểu biết (sophistes) như Protagoras, Gorgias,
Hippias. Nhưng trong các tác phẩm vào giai đoạn hai, chúng ta lại chứng kiến
một Socrate đồng mâm, đồng chiếu, đồng thanh với những kẻ đối đầu lên án ông[39],
một Socrate truy tìm nguyên lý[40]
hiểu biết về sự vật để từ đó định nghĩa lý lịch con người.
Trong
cuốn Biện hộ Socrate, một trong những
tác phẩm đầu tay của Platon, Socrate định nghĩa hết sức rõ : Đạo lý, khôn
ngoan mà ông truyền bá chỉ là « hiểu biết về người - ἄνθρωπον
σοφία – sagesse d’homme »,
và chỉ giới hạn trong nội dung đó. Nói cách khác, đối với văn hóa và tư tưởng, nếu không đặt nhân tính làm nội dung duy
nhất, thì theo Socrate chúng ta đang nói về một kiến thức nào đó chứng không
nói đến văn hóa :
« Xin quí vị ý thức điều
nầy : lời tôi sắp nói đây hoàn toàn là sự thật. Hởi người Nhã điển, người
ta đồn tôi là người hiểu biết. Nhưng, thật sự thì biết được điều gì ? (Tôi xin trả lời) đây là sự khôn ngoan, hiểu biết liên quan
đến nhân tính - ἄνθρωπον σοφία»[41].
Như
thế, sự kiện ông đối đầu với các kẻ tự nhận là khôn ngoan không hề có nghĩa là
ông chủ trương ngu dân, chống lại việc cổ súy các kiến thức về sự vật và các
tiến bộ khác của văn minh. Thật thế, qua những trang sách của Platon, ai cũng
thấy Socrate là người có nhiều kiến thức, tranh luận sắc bén khi đối diện với
các đối thủ của mình. Và Socrate ấy cũng không giả hình khi khen ngợi tài ba
của các đối thủ chống lại ông.
Kỳ
thực, các kẻ tự nhận là khôn ngoan được nêu lên như là đối thủ không phải vì
kiến thức của họ, nhưng vì họ đã lấy nguyên lý và thước tấc đo lường sự vật (le principe d’identité des choses et aussi
le principe de la connaissance de ces choses) để định nghĩa lý lịch con
người (l’identité de l’homme - ou
l’humanité). Câu châm ngôn của Protagoras là một tiểu biểu : « Mỗi người trong chúng ta đều là thước
đo mọi vật»[42]. Châm ngôn ấy tiền kiến con người là một bản thể, một vật trong
muôn vật của vũ trụ, con người chỉ biết dùng thước đo mọi vật (đo đất) để đo
chính nhân tính mình và dưới ánh sáng đo lường đó. Trước tòa án Nhã điển,
Socrate nói về sự thái hóa nhân tính do lối đo lường nầy của những kẻ tự nhận
là khôn ngoan như sau :
« Hỡi công dân thành Nhã
điển, tôi nghĩ rằng lỗi của những người (tự nhận là) thi sĩ cũng là lỗi của những nhà có đầy
kiến thức tài ba chuyên môn (excellents professionnels) ở điểm nầy : họ dựa trên tài ba chuyên môn của họ rồi cho rằng
họ có thể có sự khôn ngoan hoàn bị, ngay cả trong những vấn đề quan trọng nhất.
Hơn thế nữa, cao vọng ấy lại che lấp không cho họ tiếp cận được khôn ngoan
khác. Cũng vì thế, tôi tự xét lại mình dưới ánh sáng của sấm ngôn để quyết
trung thành với đường lối mình đang đi, và không chạy theo khôn ngoan của những
người mà tôi vừa nhắc đến, và cũng không u mê trong con đường lạc lầm của họ. »[43]
Và
để phân biệt đạo lý của nhân tính (ἄνθρωπον σοφί) với
sự hiểu biết quá lạm về nhân tính của những kẻ tự nhận là
khôn ngoan, Socrate
khiêm tốn trình bày như sau :
« Về đạo lý, nếu tôi có đôi chút, và về nét đặc trưng của đạo lý ấy,
người chứng cho tôi sẽ là Thần ở đền Delphes »[44].
Trong
Đối thoại Le Protagoras, Platon không những lưu lại cho hậu thế một chứng cứ
cổ xưa nhất, hùng hồn nhất về văn hóa, tư tưởng Cổ Hy lạp, mà xuyên qua đó
Platon còn định vị Socrate nằm trong
truyền thống liên tục của giòng văn hóa nầy. Nền văn hóa nầy có nét đặc trưng
là cảm hứng được Λόγος, Lời của « Thần
ở đền Delphes », « Lời bên kia bờ » đến và gọi tên con người ở « ngôi thứ
hai », - « Nầy người (anh, chị,
ông, bà), hãy biết mình ! » và « Đừng quá lạm »- :
« Trong số những người ấy có Thalès thành
Milet, Pittacos thành Mytilène, Bias thành Priène, ngài Solon của chúng ta,
Cléobule thành Lindos, Myson thành Khênè, và vị thứ bảy trong họ, như người ta
nói, là Chilon thành Lacédémone. Tất cả những vị nầy đều yêu thích văn hóa
Lacédémone. Đạo lý của họ giống nhau; người ta biết đến họ qua những câu ngắn và dễ nhớ mà mỗi vị cảm ứng ra; đến ngày tụ họp, họ dâng những câu nầy làm
của lễ đầu mùa lên Apollon ở đền Delphes, nơi có ghi khắc những lời sấm mà mọi
người đều biết: ‘Nầy người (anh, chị, ông, bà), hãy biết mình ! ‘ và ‘Đừng quá
lạm’ »[45].
Nguồn
suối chung của văn hóa Cổ Hy lạp, theo chứng cớ của Platon ở đây, hẳn không
phải là truy tìm nguyên lý vũ trụ hay diễn tả bản chất quỉ thần, nhưng là lắng
nghe Lời từ « bên kia bờ » vọng lại mặc khải nhân tính trong tương
giao hàm ngụ trong chữ « σεαυτόν, TOI,
YOU, NÀY NGƯƠI ! », ở ngôi thứ
hai trong sấm ngôn « γνῶθι σεαυτόν ». Sấm ngôn
phát sinh từ ngôi thứ nhất, Ngôi Vị
Siêu Việt ẩn kín (mà Socrate thường dùng chữ Δαίμων để gợi ý), Nguồn của Lời nói
đến gọi con người, nối kết tương giao với con người và nâng con người lên đồng
sàng với mình trong một « hôn nhân mới » (một Гάμος thần thánh như lối nói của của Eschyle và Sophocle).
Vì
lý lịch con người là tương giao với Kẻ Khác ẩn kín, nên từ sức sống của tương
giao nầy, Socrate phải hoàn thành nhân tính mình bằng mối tương thông với những
ai khác ông gặp gỡ. Hai mối tương giao với Thần và với người nầy gắn bó với
nhau trong tư tưởng Socrate, và được chứng thực trong cuộc sống hằng ngày của
ông. Gặp Kẻ Khác ẩn kín để tiếp nhận thần lực, gặp gỡ những con người với nhau
nhau đễ cùng thức tỉnh nhau về lối đi không lối thoát mà con người cùng đang
đi, để cùng đối diện với ‘hố thẳm’ phân cách giữa hai thân phận, hai mối tương
giao mâu thuẩn gắn liền với nhân tính:
« Thưa quí Tòa, mỗi lần
tôi đặt kẻ khác trước sự thách đố, người tham dự nghĩ là tôi hẳn phải thông
thạo về những nội dung tôi thách đố họ; nhưng thật ra Đạo lý nầy là ơn phúc của
Thần, là sấm ngôn đến nói cho chúng ta hay rằng sự hiểu biết của con người
không mấy giá trị hoặc đúng hơn là không có giá trị gì cả »[46].
Nhưng
trong nháy mắt, sấm ngôn : ‘Nầy người
(anh, chị, ông, bà), hãy biết mình ! » vốn mặc khải nhân tính
trong mối tương giao với Kẻ Khác bất ngờ đến với mình, và với những kẻ khác mà
mình gặp gỡ, thì nay sấm ngôn ấy bị trượt ngả để được hiểu là châm ngôn triết
học «mình tự biết mình, do chính
mình – se connaitre soi-même ». Trong tiền kiến của châm ngôn
« mình tự biết mình » nầy, nhân tính nay lại được xây dựng trên chân
lý có tên là nguyên lý đồng nhất (principe
d’identité) còn gọi là tự thân (le
Soi), nguyên lý được Platon dần hồi khai thác và hệ thống hóa vào giai đoạn
hai của các tác phẩm ông viết, đặc biệt trong các đối thoại Le Parménide, Le Sophiste.
Trực
giác về sự sống của nhân tính nơi tương giao thần thánh với Kẻ Khác và đến từ
Kẻ Khác, tương giao được cảm nhận từ âm vang nơi tên gọi « Nầy người (anh, chị, ông, bà) » ở ngôi thứ hai, - tương giao mà
Héraclite gọi là Λόγος, các nhà Bi kịch Hy lạp gọi là Гάμος- , nay bị giản lược thành một lối hiểu biết ‘tự thân’ dựa trên nguyên
tắc đồng nhất, vốn là nguyên tắc của hiểu biết giúp con người làm chủ sự vật.
Bước trật chân ấy thực ra Socrate đã cảnh giác mạnh mẽ như sau trong Đối thoại Le Charmide của Platon[47] :
«Trong
trường hợp nầy[48], người có sự khôn ngoan lại là người một mình tự mình biết mình; một mình mình xét định được cái gì mình
biết và cái gì mình không biết; chỉ do
tự mình mình, mình biết kẻ khác
để xét xem kẻ khác biết gì, nghĩ gì, và đồng thời biết kẻ khác cũng có khả năng
như mình. Không ai ngoài mình có khả năng nầy ngoài nỗ lực của chỉ chính mình! Đó chính là điều gọi là có được sự khôn ngoan, là hiểu biết
chân thật. Và như thế, ‘tự mình biết mình’ là do mình, mình biết điều mình biết
và điều mình không biết »[49].
Nay
con người hiểu biết là vị vua một cõi (xem Oedipe, vua một cõi ở thành Thèbes
trong Oedipe-Vua của Sophocle). Ai
Khác (Thần) và mọi người khác đều bị (giết) biến thể thành những ý niệm, những
đối tương dưới quyền năng hiểu biết mà mình là chủ thể.
Dưới
ánh sáng « đến từ bờ bên kia »,
- ánh sáng đến từ mối tương giao nâng con người lên ngôi thứ hai, kẻ được Thần gọi là anh chị, ông bà… để đồng sàng -, người khiêm tốn Socrate đã
giúp « người tự nhận là khôn ngoan » Critias đối diện với bế tắc của
con đường « tự mình biết mình », con đường tiền kiến « tự thân (le Soi) là chân lý ». Nhưng những
lời cảnh giác trong Đối thoại Le Charmide đã bị ánh sáng của một homo
sapiens Oedipe, mẫu mực của truyền thống tư tưởng triết học, che mờ.
Thật
thế, không phải câu nói của Hegel: « ý
thức tự thân là quê hương của chân lý »[50] vốn
là mẫu mực cho tư tưởng truyền thống triết học hay sao?
Nhân
danh Socrate là thầy, truyền thống văn hóa homo
sapiens đã lên án Socrate chết thêm một lần nữa.
Socrate
chứng nhân cho cuộc chiến thần thánh giữa một bên nhân tính chân thật nơi tương
giao với Kẻ Khác và những người khác, và bên kia là nhân tính lầm lạc nơi ‘tự
thân’ (le Soi), nay trở thành thầy
Socrate chỉ dạy con đường văn hóa xuyên qua cuộc vật lộn với vũ trụ và thời
gian tự nhiên nhằm chế ngự thế giới khả giác và hữu hình ấy, để « siêu
thoát ! » trở thành một bản tính cô đơn, tự do, tự tại, nơi thế giới
thường hằng và khả tri.
Thực
ra, vào thời Bi kịch Hy lạp, đặc biệt vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, còn
gọi là thế kỷ của Péricles, Nhã điển đã là một thành phố văn minh cao độ, so với
các cộng đồng con người trên thế giới. Trong cuốn Biện hộ Socrate, Platon đã cho chúng ta thấy rõ sự kiện lịch sử đó[51].
Nhưng các nhà tư tưởng Bi kịch, cũng như các nhà tư tưởng Héraclite, Parménide,
Socrate… không hề cho chúng ta thấy họ đã từng có sáng kiến kỹ thuật, phát minh
nghệ thuật nào để tô bồi cho sinh hoạt xã hội văn minh nầy. Và họ cũng không hề
làm chứng nhân để phát ngôn cho nền dân chủ Thành Nhã-điển, hoặc ca tụng hay
lên án một hình thức tổ chức xã hội nào liên quan. Không phải họ không lưu ý
đến thế thái nhân tình, không phải họ trốn tránh nghĩa vụ trau dồi kiến thức,
làm cha gia đình, làm người công dân…,
ngược lại là khác. Nhưng sứ mạng văn hóa mà họ cảm thấy có bổn phận thực
thi, và nội dung duy nhất của văn hóa mà họ cảm hứng được, đã buộc họ cảnh giác
nguy cơ nghiêm trọng hơn cả : đó là
cái chết của nhân tính[52], và nêu lên điều đáng phải làm trước
tiên : đó là ý thức nhân tính và
hoàn thành nhân tính của mình.
Và
sứ mạng đó, nội dung đó đối với họ được gọi là Tư tưởng, Đạo lý hay Văn hóa.
Socrate đã sống và chết cho sứ mạng nầy.
Đồng
thanh với các nhà tư tưởng Cổ Hy lạp khác, Sophocle lại nhắc nhở nguy cơ gắn
liền với thân phận con người bất cứ ở đâu và vào thời nào, đó là nhân tính bị
hiểu lầm tự thân (le Soi). Nhân tính chết vì chìm đắm trong ‘tự thân’
chứ không phải bị tiêu vong vì « sinh lão bịnh tử » hoặc bất cứ
hiện tượng nào trước mắt. Con nhân-sư (Sphinx) được truyền thống triết học xem
là tượng trưng cho tiếng ca khải hoàn vào buổi khai sinh văn hóa[53],
kỳ thực đối với các vị thánh hiền, đó chính là nguy cơ tối hậu che khuất dấu
tích tìm về nhân tính linh ư vạn vật
của con người :
Créon :
« Con nhân-sư ấy với tiếng tru tréo
phỉnh phờ đã luôn buộc chúng tôi quên mất những gì ẩn kín siêu việt, vượt lên
trí năng, để chỉ nhìn nguy cơ đằng trước (nhìn với mắt người trần)- Ἡ ποικιλῳδὸς Σφὶγξ τὸ πρὸς ποσὶ σκοπεῖν μεθέντας ἡμᾶς τἀφανῆ
προσήγετο. Ἡ ποικιλῳδὸς Σφὶγξ τὸ πρὸς ποσὶ σκοπεῖν μεθέντας ἡμᾶς τἀφανῆ προσήγετο. »[54]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét