Chương V
Thi hào Eschyle
Thân
phận làm người và cuộc chiến giữa Tài và
Mệnh
Khổ đau, bi
thảm, số mệnh là những thành ngữ diễn đạt những cảm thức uyên nguyên của con
người trong hầu hết các truyền thống văn hóa. Thế nhưng qua khúc quanh kỳ lạ,
mà nhiều người tôn vinh là phép lạ Hy Lạp, biến cố con người tuyên dương mình
là thước đo của chính mình, biến cố khai sinh tư tưởng triết học, chúng lại
được xếp vào vùng đất của khả giác, nghĩa là là vùng đất tách lìa khỏi vùng
trời tư tưởng. Phải đợi đến hơn hai mươi thế kỷ sau, nghĩa là vào thế kỷ 18 và 19
truyền thống văn hóa tây phương, đặc biệt nơi Hegel và Nietzsche, người ta mới
khám phá lại sự hiện diện của khổ đau và bi thảm như những yếu tố quan trọng
trong tư tưởng triết học. Nhưng cũng như lúc ban đầu Platon đã gặp Socrate và
biến Socrate thành nhà thông thái, thành vị tiên phong của triết học, nay triết
học nhìn lại quá khứ và tiếp cận với bi kịch Hy lạp, nhưng với tiền kiến chân
lý là tự thân, đã sớm hội nhập khổ đau cũng như bi kịch vào thành những hệ
thống triết học mới trong lòng truyền thống triết học.
Trong âm
hưởng của điều mà truyền thống triết học chưa từng suy nghĩ qua lời chất vấn về
nền tảng tư tưởng của tự thân tương quan với ý nghĩa của nhân tính, chúng ta
đặt vấn đề: đâu là yếu tố làm nên bi kịch trong định chế bi kịch Hy lạp?
Và ý nghĩa nhân tính được lắng nghe như thế nào qua nội dung bi kịch nầy?
1.
Một số nét cá biệt của bi
kịch Hy lạp
Trên bình
diện lịch sư,û bi kịch Hy Lạp không phải chỉ là một lối giải trí tập thể, một
sinh hoạt nghề nghiệp nào đó trong muôn ngàn sinh hoạt khác nhau, nhưng là một
định chế hướng dẫn tư tưởng người dân Nhã Điển trong vòng một thế kỷ, thế kỷ
khai sinh nếp sinh hoạt của thành phố dân chủ với những luật lệ liên hệ.
Nếu huyền
thoại được gọi là những ẩn số về nhân tính, [1]
thì bi kịch là nơi mà thân phận làm người được nêu lên như một vấn đề.
Jean Pierre
Vernant và Pierre Vidal-Naquet trong cuốn Huyền thoại và bi kịch của Hy Lạp
cổ xưa [2] nhận định về sự
kiện các biệt đó như thế nầy:
“Người
ta có thể nêu lên là bi kịch xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI trước công nguyên
khi ngôn ngữ huyền thoại không còn tác dụng trên thực tế chính trị của thành
phố...Trong khuôn khổ mới của bi kịch, người hùng không còn là kiểu mẫu phải
noi theo, nhưng đã trở thành một vấn đề cho mình và cho kẻ khác...Bi kịch Hy
lạp xuất hiện vào một thời lịch sử nhất định. Người ta thấy nó được khai sinh ở
Nhã Điển, phát triển ở đó rồi suy tàn trong khoảng một thế kỷ. Tại sao? Không
phải chỉ có vấn đề bi thảm được diễn tả nơi ý thức ray rứt khốn khổ, những mâu
thuẩn giằng co nơi tâm con người; cần tìm xem những đối nghịch bi thương đó ở
vào bình diện nào, trong những điều kiện nào mà những tương khắc đó xuất hiện”.
Tiếp theo nhận định nầy, trong khuôn khổ của
một phương pháp của một bộ môn khoa học nhân văn, tác giả nhắc nhỡ rằng trước
khi đi vào nội dung bi kịch Hy lạp, thiết tưởng phải lưu ý đến những hoàn cảnh
tâm lý và xã hội của người dân Thành Nhã Điển trong đó bi kịch xuất hiện:
“Bi kịch nối tiếp các anh hùng ca, thi ca tình
cảm, và tàn lụi khi triết học xuất hiện; trong khuôn khổ của một một loại văn thể, nó xuất hiện như một lối
kinh nghiệm cá biệt của con người, liên quan đến quan đến những điều kiện xã
hội và tâm lý nhất định”.[3]
Theo tác
giả, kinh nghiệm cá biệït của con người được nêu lên đây là kinh nghiệm con
người “công dân”, con người trong các mối tương giao làm nên mình; các tương
giao ấy được nhìn, được đánh giá trong khuôn khổ của các giá trị thực tế đang
điều hành cộng đồng Thành phố Nhã Điển. Trong khuôn khổ đó, tác giả nhận định
tiếp thế nầy:
“Walter Nestle nhận định đứng
đắn rằng bi kịch khởi đầu khi con người nhìn huyền thoại với con mắt của người
công dân. Nhưng không phải chỉ có thế giới huyền thoại mất đi thế giá và tan rã
dưới cái nhìn nầy. Thế giới của thành phố đồng thời lại bị đặt thành vấn đề và bị
phi bác ngay nơi các giá trị nền tảng của nó qua cuộc tranh luận nầy.” [4]
Bi kịch là
một định chế, mà là một định chế đặc biệt: nó là tiếng nói văn hóa, không phải
để diễn tả các thực tế sinh hoạt xã hội, những sáng kiến, ước mơ hay tình cảm
của cá nhân hay tập thể trong khuôn khổ của những giá trị đã làm nên thế giới
của con người nơi các mối tương quan đang làm nên xã hội. Định chế hay loại văn
bi kịch ấy đưa toàn bộ thực tại cũng như những nền tảng xây dựng nên xã hội đối
đầu với một cảm thức gọi là Định Mệnh. Nói cách khác bi kịch biến toàn thể thực
tại thành vấn đề.
Định chế bi kịch đó thấm nhập toàn thể những
người làm nên xã hội đương thời qua một lối trình diễn đặc biệt: người diễn
kịch cũng như ca đoàn đại diện cho dân chúng đang tham gia buổi trình diễn đi
vào cuộc thảo luận. Các nhân vật trong bi kịch không phải là anh hùng, nghĩa là
mẫu mực giá trị nhất định nào đó, nhưng là khuôn mặt của “người công dân” Hy
lạp đang bị đặt thành vấn đề, những ẩn số
làm cho mọi người suy nghĩ :
“Trong chân trời bi kịch, con người
và nhân vi không được xuất hiện như những thực tại mà ta có thể định nghĩa hay
mô tả, nhưng được nêu lên như những vấn đề. Chúng được trình bày như những ẩn
số mà ý nghĩa của chúng không bao giờ có thể qui định rõ thế nầy hay thế khác”[5]
Thách đố của
tư tưởng trong bi kịch Hy Lạp không phải khả năng giải mã một khó khăn dựa vào
những qui luật hiểu biết đã có sẳn, nhưng là cảm nhận và chia sẽ nỗi khắc
khoải, nỗi đau của kiếp làm người, thể hiện nơi ý thức về mâu thuẩn giữa thiện
chí con người, giữa những nguyên tắc làm nên công lý tạo mối tương quan giữa
người với người (trong khả năng hiểu biết tối đa của con người) và bên kia là
công lý khắc nghiệt của Định Mệnh. Trong bối cảnh giằng co giữa hai thế giới,
giữa hai mối tương quan khác nhau, nơi công lý con người và nơi Định Mệnh, bi
kịch Hy Lạp sẽ có lối sử dụng ngôn ngữ với những nội dung lắm lúc mâu thuẩn với
nhau trong cùng một bản văn, không khác những lối nói thi ca của các nhà tư
tưởng mà chúng ta có thể chứng kiến nơi Héraclite, Parménide và Socrate:
“Ngoài
vấn đề nhân vật bi kịch, có một lãnh vực khác mà người minh giải cần truy tím
các khía cạnh tạo nên căng thẳng và đối nghịch. Chúng ta đã nói là các nhà bi
kịch sử dụng lối văn luật pháp. Nhưng khi dùng loại ngữ vựng nầy, thì hầu như
họ thường thi thố tài hành văn của mình với những ý nghĩa còn chập chờn, mập
mờ, chưa hoàn chỉnh (....). Thật thế, người Hy Lạp không có ý niệm về một lối
luật pháp tuyệt đối, dự trên các nguyên tắc, được tổ chức thành một toàn khối
chặt chẽ. Đối với họ, có những cấp độ và những tầng luật pháp chồng lên nhau,
và có những cấp tầng pha trộn hoặc lấn chen nhau. Một mặt có luật liên hệ đến uy quyền thực tế,
dựa trên sự cưỡng chế, mà theo một nghĩa nào đó, nó là sự tiếp nối của luật
pháp. Phía kia là luật liên quan lãnh vực tôn giáo, liên hệ đến những quyền lực
linh thiêng, trật tự của thế giới, công lý của Zeus”[6]
Bi kịch Hy
lạp là một định chế đặc biệt của một thời kỳ nhất định của Thành Nhã Điển; nó
diễn tả mối căng thẳng và tranh chấp không có câu giải đáp giữa công lý làm nền
cho các mối tương giao của thế giới người công dân (homo politicus) và
một công lý thường được gọi tên là Định Mệnh. Nhưng định chế của một thời, hình
thức nghệ thuật sân khấu, bối cảnh của đề tài là người công dân trong trật tự
xã hội thành Nhã Điển , hình ảnh thi ca vay mượn lối văn thần thoại...tất cả
những nét riêng đó không phải là yếu tố thiết yếu làm nên sinh lực của điều
được nhắc đến như tư tưởng bi kịch trong định chế bi kịch Hy lạp. Bi kịch Hy
lạp là tư tưởng, là nơi gặp gỡ văn hóa nhân loại khi ý nghĩa nhân tính đã được
nêu lên như một vấn đề.
Và ý nghĩa
nhân tính hay sinh lực làm người được gọi là bi kịch: con người là người
vì ở trong cuộc chiến không lối thoát giữa tự thân và Mệnh.
2.
Prométhée, một cuộc chiến bi
thảm của nghiệp làm người
Eschyle và
Sophocle là hai văn hào bi kịch Hy lạp tiêu biểu. Và hai nhân vật Prométhée và
Oedipe trong hai vở kịch Prométhée bị trói và Oedipe Vua của hai
tác giả thường được người ta nhắc đến như
tinh hoa văn hóa của lối tư tưởng nầy.
Thế nhưng,
rất sớm, Prométhée, một lối diễn tả thân phận con người trong tư tưởng bi kịch
dường như không còn được nhắc đến như một hứng khởi cho suy tư nữa.
Prométhée được nhắc đến trong tác phẩm Protagoras
của Platon không còn gì tơ vương với ý nghĩa nhân tính trong bi kịch Hy Lạp.
Trong lối diễn tả độc thoại của Protagoras ở tác phẩm nầy, Prométhée là biểu tượng cho khả năng con
người biết làm nên các dụng cụ để sống còn trong cuộc sống chung với muôn sinh
vật trong trời đất. Con người qua Prométhée mặc dầu tham gia với thần thánh
bằng chứng là làm hình tượng và thờ các thần, con người ấy biết nói (vốn là một
thành ngữ nói lên phẩm giá cao độ và đặc loại của con người), biết làm nhà ở,
biết lo ăn lo mặc..., nhưng lại chưa biết đến các mối tương quan của con người
xã hội, nghĩa là con người biết tụ họp thành thành phố, biết nghệ thuật chiến
tranh, biết liêm sĩ và công lý.[7] Thời gian
xuất hiện tác phẩm Prométhée bị trói đến câu chuyện được ghi lại trong
Protagoras chỉ cách nhau mấy chục năm, nhưng qua lối tiếp nhận ý nghĩa thi ca
nơi biểu tượng Prométhée, chúng ta chứng kiến tâm thức văn hóa của dân thành
Nhã Điển đã thay đổi trong nháy mắt. Tư tưởng bi kịch và thi ca như hụt hơi
trước trào lưu phát triển của hiểu biết sự vật. Con người không còn là vấn đề
cho mình; nhưng con người qua Prométhée của Protagoras tự định nghĩa mình là
thước đo chính mình và thước đo vạn vật; và trong vòng vi đó con người tạo nên
hình tượng, đền thờ thần thánh, lời nói và các dụng cụ khác để chỉ sống còn như
các sinh vật khác trong vũ trụ thiên nhiên. Đến hậu bán thế kỷ 19, Nietzsche đã
phục hồi lại vị thế tư tưởng nơi biểu tượng Prométhée. Nhưng Prométhée của
Nietzsche được nhai đi nhai lại nơi nhiều tác giả đi sau ông thực ra là một
sáng kiến riêng của Nietzsche, một hình ảnh tương tự với Faust, lý tưởng cho
con người biết (homo sapiens) và con người chơi (homo ludens),
của văn hóa thời đại tân kỳ của chúng ta. Nietzsche viết rõ rằng:
“Vinh quang của thụ động đau thương
(nơi Sophocle), nay tôi chống ngược lại qua hào quang sáng rực trên đầu
của Prométhée nơi Eschyle. Điều đó là những gì nhà tư tưởng Eschyle muốn nói
với chúng ta ở đây; qua lối nói thi ca, điều mà
ông chỉ gợi cho chúng ta tiền cảm được nơi hình ảnh biểu tượng ấy thì
Goethe vào lúc còn trẻ đã nói rõ ra qua những lời nói táo bạo nầy của
Prométhée:
Nầy ta đây, ta uốn nắn con người
Theo hình ảnh ta,
Một giống tộc giống với ta,
Để đau thương, để khóc lóc,
Để hưởng thụ và hỷ hoan,
Và để đừng tôn vinh ngươi
Như ta” (V.51-57 trong bài thơ Prometheus của Goethe, năm 1773) [8]
Con người, tự nâng mình lên làm thần, tự tạo cho mình một nền văn minh
và buộc thần thánh phải liên kết với mình, vì qua sự thông thái riêng của con
người, nó quyết định có thần thánh hay không và những quyền lực của giới nầy”. [9]
Hình ảnh một Prométhée, “Người loan báo ‘ ngày tàn của thần
thánh’ và cổ súy tôn vinh con người; đó là hình ảnh mà thi sĩ và triết gia thế
kỷ XVIII và XIX từ Goethe đến Michelet, xuyên qua Shelley, Byron hoặc Karl Marx
lặp lại và yêu thích.”[10]
Ý nghĩa nầy về Prométhée của Nietzsche đã quá quen thuộc với tâm tư của
văn hóa thời đại đến độ tỉnh từ “có tính cách Prométhée: prométhéen” làm
người ta nghĩ ngay đến nội dung mà tác già Geneviève Droz ghi lại trên đây.
Nhưng nó quen thuộc và được chấp nhận một phần vì sự hiểu biết làm nên nhân
phẩm con người đã được triết học định vị như thế từ ngay thủa ban đầu xây dựng
nên nó. Có thể Nietzsche đã dùng lối nói hung hăng, một lối văn chương triết
học có nhiều màu sắc và hợp thời hơn, nhưng hình ảnh Prométhée với ý chí quyền
lực “ta chỉ muốn ý muốn của ta” [11]
không có gì khác hơn Prométhée qua lời xác quyết của Protagoras: con người là
thước đo muôn vật.
Prométhée trong bi kịch Hy Lạp, bi kịch của kiếp làm người bị giằng co
giữa hai con đường: con đường của tự thân với những tương quan do mình kết dệt
cho mình qua khả năng hiểu biết sự vật và con đường mà con người chỉ cảm nghiệm
như một lời từ chối con đường mình đang đi; lời từ chối đó gọi là Mệnh. Prométhée chiến đấu bi thương trong bi
kịch Hy lạp không hề xuất hiện, và chúng ta sẽ thấy tại sao không thể xuất hiện
được trong thời kỳ xuất phát triết học và ngay cả vào thời đại muốn phục hoạt
lại bi kịch Hy Lạp trong khuôn khổ tư tưởng triết học, đặc biệt qua tư tưởng
của Nietzsche. Nhưng như một số kiếp con người trong lịch sử, một cách nào đó
tư tưởng triết học đã đưa nhân loại khai phá dần khuôn mặt của tự thân, là con
đường hiểu biết vô cảm, không hề biết khổ, là một phần nơi toàn thân Prométhée.
Prométhée của Eschyle là Prométhée của bi kịch Hy Lạp, của thời kỳ các
nhà tư tưởng Héraclite, Parménide nghe được Logos, một lời không phải lời con
người đang nói, như một tiếng vọng quấy
rầy con người. J-P. Vernant và P. Vidal-Naquet nhận định rất chính xác rằng
Prométhée là chính con người được đặt thành vấn đề. Mỗi lời nói, hay tác động,
phản ứng của Prométhée như hàm ngụ hai nội dung đang thách đố và đối đầu với
nhau. Và mỗi con đường, mỗi nội dung thoáng hiện ra nơi diễn tiến của câu
truyện lại đặt thành vấn đề ngay cho chính mình.
- Vấn đề đặt ra ngay cách hiểu về tựa đề bản
kịch
Trước hết là tên gọi của kịch bản mà chúng ta đang nêu lên: kịch bản Prométhée
bị trói. Trong tư tưởng như một cuộc tranh chấp, hẳn có hai lối thẩm định:
- Nhân tính con người cần được
nêu lên trong tư tưởng bi kịch là nhân tính trong thân phận con người tại thế
đang bị trói. Vị thế thụ động, bị, cảm thức khổ đau không có một nội dung y như
hình ảnh tương tự ở trong trật tự của người “không biết đến tư tưởng bi kịch”,
của con người hiểu biết và xúc cảm như bao sinh vật khác. Thụ động trong chữ bị
trói có nghĩa là được nối lại với cảnh vực ngoài cảnh vực của tự thân, do
một lối tương quan, một sợi giây không phải tự do mình làm ra cho chính mình.
Thụ động ở đây không tơ vương gì với định luật động hay tỉnh, sung sướng hay
buồn vui trong nhận thức sự vật hay trong cảm thức tâm sinh lý.
- Nhưng cũng có lối thẩm định
của thế giới tự thân, xác quyết con người là thước đo làm nên nhân tính, thì bị
trói được hiểu là một giá trị tiêu cực mà con người phải giải phóng để khai mở
thời đại mới, thời đại con người làm chủ vũ trụ thiên nhiên và quyết định giá
trị và hướng đi của lịch sử.
Trong tư tưởng của Eschyle, hai lối thẩm định luôn ở thế giằng co và làm
nên bi kịch. Quyết định vượt qua cuộc tranh chấp nầy như một cuộc giải phóng,
để xác quyết việc tôn vinh sự toàn thắng của con người hiểu biết hoặc con người
ý chí quyền lực của Nietzsche là đã kết thúc cuộc chiến nơi ý nghĩa nhân tính.
- Tư tưởng và công lý
Héraclite và
Parménide cảm nhận được sự xa cách giữa Logos và lời con người, giữa chân tính
và nhận thức con người về sự vật và thường xoay quanh một số nội dung như đúng
hay sai, giả hay thật, tìm hay gặp, đồng nhất hóa hay hy vọng bất ngờ...; trong
các bi kịch Hy Lạp, điểm nổi bật của tư tưởng lại xuất hiện nơi mối xung đột
của nhận thức con người về các nền tảng xây dựng công lý và cảm thức về Định
Mệnh.
Bi kịch Hy
Lạp lôi kéo các nhân vật, ca đoàn, người viết kịch và dân thành Nhã Điển vào
một vụ án. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói đều hàm ngụ những phê phán khác nhau đang tố
giác và đồng thời đang biện hộ. Và “con người được nêu lên thành vấn đề” là
toàn bộ cuộc chiến. Ngay cả ca đoàn là tâm thức người dân Nhã Điển cũng đi vào
vụ án, không phải là thẩm quyền để nói lời cuối cùng, để kết tội hay tôn vinh
những giá trị tích cực nào đó như những anh hùng, nhưng được nêu lên như một
thực trạng đáng đặt thành vấn đề.
- Nền tảng của công lý bình đẳng đang chi phối
các mối tương quan làm nên con người chính trị xã hội thành Nhã Điển bị một âm
vang nào đó, được gọi là Mệnh, đặt thành vấn đề một cách vô lý. Lý
ấy được tiền kiến là những sức mạnh và khả năng mà con người có sẳn trong tay
để kết dệt nên những tương quan khác nhau làm nên con người mình.
- Sau khi bị Mệnh từ chối uy quyền, tài năng
và sức mạnh của mình, qua ba sứ giả của Mệnh là Thần Uy Quyền, Thần Tài
Năng và thần Sức Mạnh, Prométhée tượng
trưng cho lý nơi nguyên tắc của công lý bình đẳng mới lên tiếng trình bày về
thân thế và công trạng của mình:
Lý mà Prométhée dựa vào để lên tiếng là con của Thần Công Lý Thémis,
nhưng nền công lý ở đây còn gọi là Thần Đất Gaia. Nhiều tác giả cho rằng
Eschyle đã lẫn lộn hai nhân vật nầy trong danh sách những nhân vật huyền thoại
Hy Lạp, nhưng kỳ thực đây không phải là một sự lầm lẫn mà là một lối dụng văn
để gợi ý. Gaia và Thémis ở đây là một nội dung trong hai tên gọi,[12] nghĩa là
những nguyên lý giúp con người mở ra với bên ngoài và có được sự phân biệt,
hiểu biết sự vật. Sau nầy có chữ géomètre (đo đất) để chỉ sự hiểu biết
chuyên môn nầy. Trong phần kể những công trạng tài năng mình, Prométhée nêu rõ
tài năng dùng các con số (để đo lường) để tính toán mọi sự là sự hiểu biết tối
cao nơi con người.[13]
Lý ấy dùng
mưu (hay còn có nghĩa là theo lời khuyên Gaia hoặc Themis nầy) để hạ bệ Cronos
và tôn vinh một Zeus theo ý của mình. Prométhée diễn tả một cách khác về
việc lật nhào Thời gian (Cronos) và làm nên con người mới, homo sapiens, con
người hiểu biết như sau:
- Prométhée: Vâng, ta đã xóa được những nỗi
hãi hùng mà cái chết ám ảnh con người...(v
248)…
- Ta đã gieo vào trong họ những ảo vọng. (v 250)
Thời gian (Cronos) được cảm nhận nơi cái chết,
ý thức giới hạn gắn liền với khát khao vô hạn, cảm thức đó phải bị hạ bệ; và Lý
của Prométhée sẽ dùng mưu để tự mình làm nên thần thánh đáp ứng với ý muốn và
mong đợi của mình. Prométhée của Eschyle gọi tên Zeus theo ý của mình, ý
niệm Zeus thần thánh đó là ảo vọng.
Cũng Lý ấy
cho phép con người có những tài năng, tức là làm cho mình có mặt và lớn lên để
hoàn thành nhân tính trong khuôn khổ hiểu biết, còn được gọi là tài “đo đất”. Từ suy tư hiểu
biết, biết tính toán, biết viết, biết văn hóa, nghệ thuật, tổ chức nghề nghiệp,
nghi lễ tôn giáo, khai thác thiên nhiên, kiến tạo các nền văn minh :
“nói tắt một lời: mọi tài của lài làm người hay chết đều do Prométhée”. [14]
Và quan
trọng và rốt ráo hơn cả là thước đo làm nên con người “tự thân đó” đương nhiên
cũng phải tự xem là định chuẩn cho chân lý và thiện hảo. Thémis cũng là Gaia,
sự ngang bằng trong phán đoán của lý trí hiểu biết, đo lường sự vật đương nhiên
cũng là nguyên tắc để đặt nền cho công lý áp dụng cho lối tiếp cận các mối
tương quan làm nên nhân tính. Và dựa trên định chuẩn công lý bình đẳng nầy, thì
sự xuất hiện một âm vọng nào khác ngoài sự ổn cố, tự lập tự mãn nầy đúng là bất
công. Những oán than của Prométhée, những lời an ủi của ca đoàn, thần thánh bạn
bè Prométhée diễn tả nỗi đau của Prométhée là bất công, là đáng phẩn nộ..., tất
cả những phẩn nộ, khổ đau ấy đều nằm trong khung trời của Prométhée đo đất để
làm người nầy.
- Do sự chạm trán với Mệnh, Prométhée mới quay
lại được với thực tại trong khổ đau và nhận ra khuôn mặt “tự thân”của mình, nhận ra “‘Pro’ nơi Prométhée”, tức là dự
kiến, cái phóng ra đằng trước (ban cho con người lửa=lực và tài năng=quyền)
trong tác động vất bỏ, hạ bệ một chiều kích được xếp ở sau lưng như quá khứ (hạ
bệ Cronos và tạo cho mình một loại Zeus). Đằng trước đó là dự kiến
một nhân tính hoàn toàn do bàn tay, công sức của mình được xây dựng, tu bổ
trong thời gian. Tiến trình đó làm nên một loại thời gian riêng, thời gian lịch
sử người làm nên người. Mỗi bước đi tới như thế đều hàm ngụ một sự nhốt tù
Cronos và tôn vinh một Zeus mới theo dự phóng của mình. Nhân tính đó được nhận
ra như không sợ chết và có những ước mơ vô tận hảo huyền.
- Nhờ đụng chạm với Mệnh, con người ý thức thân
phận của mình, sự kiện đó cũng có nghĩa là con người được mời tham dự vào cuộc
tương tranh về thẩm định giá trị: Trước một thực tại con người có thể quên
Cronos và tạo Zeus theo ý mình, có một Prométhée xem thực tại đó là một thành
tích trong dự kiến (pro) người làm nên người. Nhưng cũng trước cùng một
thực tại ấy, có một âm vang của Mệnh
nhắc rằng: “Nay ngươi làm đều táo bạo ở đây, và trao cho những kẻ phù du
những đặc ân dành cho thần thánh. Những kẻ hay chết ấy làm gì được để làm nhẹ
gánh khổ đau của ngươi?” (v 82-84)
Prométhée
mới, Prométhée lắng nghe được Mệnh như âm hưởng về nền tảng của tự thân tương
quan với ý nghĩa nhân tính, Prométhée ấy là con người khổ đau. Prométrhée ấy sẽ
thấy trước (Pro), nhưng trước đây không phải trong chiều kích
ngôn ngữ và công lý của Prométhée cũ. Nhưng trước là dẫn vào một con đường mà
không có một con đường nào mà con người trong khả năng mình tự làm ra được, con
đường Khổ.
- Khổ và chân tính con người tại thế
Có thể xác
định rằng không có Khổ thì không có tư tưởng về thân phận và chân tính con
người tại thế và cũng không thể có bi kịch Hy lạp. Nhưng Khổ là cảm thức về
chân tính con người mà bi kịch Hy Lạp diễn tả lại không hề được nhắc đến trong
các phạm trù của tư tưởng triết học. Sự kiện nội dung Khổ nầy vắng bóng trong
truyền thống triết học là một trong những dấu chỉ về sự khác biệt của tư tưởng
triết học và các nền văn hóa khác kể cả nền văn hóa Hy Lạp tiền triết học.
Cũng như
Parménide, Héraclite, Socrate và các hiền nhân trong các nền văn hóa nói chung,
tư tưởng trong bi kịch Hy lạp luôn là khắc khoải hay thắc mắc về thân phận của
con người, chứ không phải là tò mò hiểu một điều gì khác.
Héraclite và
Parménide thắc mắc về nhân tính phát xuất từ cảm thức về một sự xa cách và xung
đột giữa Lời căn nguyên lôi kéo con người lên với thần thánh và lời con người
phân biệt ngày đêm, đo lường, phán đoán trong khuôn khổ hiểu biết về sự vật như
những dụng cụ của mình. Còn Socrate thì dấn thân làm người trong thân phận đang
bị chi phối bởi hai lối hiểu biết đang xung đột nhau.
Các bi kịch
gia Eschyle và Sophocle nêu lên vấn đề nhân tính không những qua cảm thức về sự
xung đột giữa tự thân và chân tính, mà còn khai mở cho thấy sinh lực của chân
tính trong thân phận con người tại thế là Khổ.
Để tiếp nhận
ý nghĩa về Khổ căn nguyên nầy, chúng ta trở lại bản văn bi kịch Prométhée bị
trói của Eschyle.
-
Khổ diễn tả cảm thức về một cuộc
gặp gỡ khai mở tương quan làm nên chân tính con người
· Bản văn của Eschyle mở đầu bằng sự
xuất hiện trước của các Thần đại diện Zeus (Thần Uy Quyền, Thần
Tài Năng, Thần Sức Mạnh), đến để xử tội và đóng đinh Prométhée. Nh ờ
sự xuất hiện đột ngột và khởi nguyên nầy, Prométhée vốn ở trong tư thế an tâm
đi tới trong thế giới do bàn tay mình tạo ra, giật mình và nhận ra thân phận
của mình: một thân phận bị dằng co giữa một Prométhée tự thân đã đẩy lui
Cronos, tôn vinh một Zeus mới với những mơ ước hảo huyền theo ý mình, và một
Prométhée đang thiếu vắng những tương giao để làm nên nhân tính. Cuộc gặp gỡ,
cuộc chiến giữa hai thân và cảm thức Khổ gắn liền với nhau tại nên một cảnh vực
riêng gọi là cõi người ta.
· Nhưng đi vào cõi người ta để tiếp nhận sinh
lực làm người cũng có nghĩa là phải Khổ, theo nghĩa là diệt ngã, nghĩa
là lìa tự thân để đi vào tương giao mới :
- Phải đi ra khỏi ‘quê người’ là thực tại
quen thuộc trước mắt. Câu đầu tiên được viết như sau :
-
Thần Uy Quyền: - Nay
chúng ta đến trên một vùng đất của một xứ xa xôi, quê người Scythes, giữa một
sa mạc không bóng người...”[15]
- Lửa từ
Thần Tài Năng Hèphaistos, vua của nghề nghệp, của thước đo sự vật, nay không
còn được đánh giá là tạo văn minh tiến bộ, nhưng là tác năng đóng đinh Prométhée. Hai
Thần Uy Quyền và Sức Mạnh không phải là vinh quang của quyền uy và sức mạnh con
người tự mãn Prométhée, nhưng là Lửa đốt
cháy tự thân, là những hình ảnh về lệnh truyền của Zeus để làm khổ Prométhée.
- Prométhée với những dự phóng văn minh, một
tiên tri cho nhân loại tương lai nào đó nay biến thành một tiên tri, một khả
năng thấy trước về sự bất lực của chính mình, hay ý thức về giới hạn của tự
thân:
- Thần Uy
Quyền: “Các thần thánh sai lầm khi gọi người là tiên tri (Prométhée); chính
người lại cần một tiên tri (Prométhée) để biết cách thoát khỏi những gút mắt
hiểu biết ấy” (v 1-2).
- Và toàn bộ tương quan mới, nghĩa là con
người trong tư thế gặp gỡ với Mệnh, con người nhận ra giới hạn của tự thân gắn
liền với nghiệp làm người của mình, con người chiến đấu để vượt lên trên đường
mòn bằng lòng với mẹ Gaia và loại công lý dựa trên lý trí hiểu biết sự
vật (= Thémis cũng chỉ là Gaia), để đi vào chiều kích tương giao
với Mệnh. Mệnh là một loại Công Lý mà ngay cả Zeus (đang làm khổ Prométhée)
cũng đành thua.[16]
- Và Khổ gắn liền với nghiệp làm người
tại thế: trong tư thế con người tại thế, sự gặp gỡ với Mệnh qua
hình ảnh Thần Uy Quyền, Thần Tài Năng, Thần Sức Mạnh với Prométhée không ban
cho Prométhée diệt dứt tự thân là Prométhée cũ để thể hiện ngay trong cõi đời
nầy một Prométhée chu toàn nhân tính trong mối tương giao trọn đầy với Zeus nào
đó. Dứt tự thân là tìm gặp lại Cronos, thời tính của nhân tính, là cư ngụ trong
cõi người ta, là Khổ, nghĩa là luôn phải chiến đấu giữa tự thân và chân tính
như cảm thức thiếu vắng những mối tương giao làm nên nhân tính.
-
Khổ và sự thách đố làm người
Trong phần
đầu bản văn Prométhée bị trói, Thần Quyền Uy của Zeus lên tiếng nơi sa
mạc vắng người.[17] Từ Quyền Uy của tiếng nói
xa lạ đó, Prométhée vốn là thân phận con người tài năng, “là kẻ có những tư
tưởng cao siêu, con của thần khôn ngoan Thémis”...(v 18) , là kẻ làm ra
Trời để xóa Trời, khi tự mình hạ bệ được Cronos và tôn vinh một Zeus nào đó
theo ý mình (= Tề Thiên), là mẫu mực công lý của người công dân,
Prométhée ‘ta làm nên ta ấy’ bổng nhận ra lý lịch thật của mình trong
mối tương quan với Kẻ Khác, ý thức mình mình là kẻ mang tội ác ngay nơi thực
tại của chính mình – một thực tại chỉ có mình với mình với những tương quan giả
đối chiếu với ý nghĩa nhân tính - , mình là một thực tại bị cắt đứt tương quan
với thần thánh. Gắn liền với việc cảm nhận lý lịch thật của mình trong mối
tương giao với Kẻ Khác là khổ đau: chịu khổ hình, bị trói, chịu đóng đinh vào
mỏm đá, chịu giáo đâm xuyên qua ngực.[18]
Tội oan
khiên và khổ đau vô cớ, chỉ vì đã mang thân phận con người!
Không lắng
nghe được âm vọng bên kia bờ tự thân, âm vọng dội lên nơi sa mạc xa bóng người,
không tiếp cận được ‘điều thời chúng ta chưa suy nghĩ’, thì không có cảm thức
thân phận con người tại thế ‘như đã lạc lối’, mang tội căn nguyên là quên lãng
tương giao làm nên lý lịch ‘người’ của mình. Và hẳn nhiên không đi vào được Khổ
làm nên bi kịch căn nguyên của thân phận con người mà bi kịch Hy lạp là một vết
tích.
Thảm kịch
làm người, Khổ, không phát xuất từ bất cứ lối cảm nhận, suy luận hay giải thích
nào từ khả năng con người và nền công lý mà con người khai triển được, - công
lý bình đẳng, công lý dựa trên nguyên tắc nhân-quả-. Nó không vô lý hay hữu lý
dựa trên lý mà con người có trong tầm tay.
Bản kịch
được đặt tên Prométhée bị trói: ‘bị trói’ cho thấy tình cảnh con
người thụ động và tự mình không còn phương cách tháo gỡ. Thụ động
trước hết hàm ngụ ý nghĩa là con người nhận ra mình trong một cuộc gặp gỡ
bất ngờ (= theo lối nói nhà Phật là ngộ). Thụ động trong âm hưởng
thi ca của các ngôn ngữ (paqoz, paqhsiz, affection, passion..) như đã
tiên liệu một thực trạng tự động (auto), tự nhiên di nhiên, vô cảm. Nói
cách khác thụ động nầy có nghĩa là sự tiếp cận bất ngờ, gợi lên mối
tương giao mới (theo nghĩa là không dựa trên nền tảng các mối tương giao diễn
tả tác động của tự thân), khác lạ, nơi nhân tính; chứ không nằm trong tiền kiến
chủ động và thụ động với những giá trị tích cực và tiêu cực đã được tiền kiến
nơi tự thân.
Và trong ánh
sáng xa lạ nơi vùng trời gặp gỡ nầy, tự thân mất thế đứng làm chuẩn mực cho ý
nghĩa nhân tính; nguyên tắc đồng nhất lung lay trước lời tra vấn về những chiều
kích kết dệt nên sự sống con người. Thực tại con người đang ung dung tự tại
dưới áng sáng tự thân sẽ nhận ra hơi thở làm nên sự sống mình trong cuộc gặp gỡ
bất ngờ. Trong thân phận con người tại thế,
sự sống ấy gắn liền với sự chết của tự thân (= tự thân vốn là cái chết
của nhân tính); sự sống của thực tại con người với hơi thở mới nay được cảm
nhận là Khổ, hàm ngụ sự căng thẳng từng giây phút giữa tự thân luôn vẫn trói
buộc con người và chân tính con người chỉ đến với mình như một lời từ khước tự
thân! Vì thế Khổ là ý nghĩa chân tính của thực tại nhân sinh. Khổ
- như bước hụt hẫng căn nguyên, một tình trạng
bị bỏ rơi, một nỗi khát khao chân lý mà không một chân lý nào trong tầm tay con
người thỏa mãn được,
- và đồng thời như phải nhận ra là thân phận
mình ‘bị buộc trói’ trường kỳ với tự thân, và đồng thời phải ‘diệt tự thân’ (=
nhà Phật gọi là diệt ngã, thánh kinh Kitô giáo gọi là chết đi con
người của mình).
Lối nói thi
ca của các nền văn hóa gọi âm hưởng của lời đến thăm viếng bất ngờ, ánh sáng từ
Trời làm mù đôi mắt trần tục.., lôi kéo con người ra khỏi niềm an vui của tự
thân trong thực tại quên lãng ý nghĩa nhân tính nơi thảm kịch làm người nầy, là
Mệnh.
Trong bản
văn Prométhée bị trói, Mệnh có nghĩa mệnh lệnh tối hậu, quyền uy bất
khảkháng của Chân Lý.(Chúng ta sẽ gặp chữ Mệnh ấy bằng nhiều lối nói khác nhau
trong bài thơ của Parménide khi nhà tư tưởng nầy nói đến Chân lý).
Mệnh sẽ
không còn âm hưởng bi kịch, khi ta tiền kiến một nền công lý, một loại chân lý
nào đó mà tài sức con người đặt nền được bằng cách nầy hay bằng cách khác. Mệnh
không phải là sự khắt khe của một thứ chân lý, một thế lực tự nhiên, một bộ máy
lăn quay vô tình lôi kéo người vào trong đó; không phải là một loại công lý mà
con người tiên kiến được nền tảng và phương thức điều hành của nó (như loại
công lý dựa trên nguyên tắc đồng nhất và định luật nhân quả của lý trí giúp con
người hiểu biết sự vật). Nếu lấy lại những hình ảnh mà Eschyle đã dùng trong vở
bi kịch Prométhée bị trói, thì có thể nói Mệnh không phải là Ông trời
Zeus do Prométhée và Gaia sắp đặt để đưa lên ngôi theo ý mình. Mệnh là sự bó
buộc của Chân Lý mà không tên Zeus nào từ tim óc con người tiếp cận được, không
miệng nào gọi tên được, cho nên Zeus mà Io từng gợi tên để hỏi
Prométhée cũng không thể vượt qua Mệnh nầy.
Cũng vì thế,
bên cạnh Mệnh tưởng chừng như đối thủ trả thù và làm khổ Prométhée một cách vô
cớ theo lối định giá của công lý con người, thì Mệnh còn được Esclyle diễn tả
như Duyên từ Trời đến với con người, một
bất ngờ vượt lên trên, bên ngoài mọi ước mơ và dự án của thế giới tự thân.
Nietzsche
chỉ dừng lại nơi một Prométhée chỉ bị buộc trói bởi tự thân để phản kháng một
Zeus mà chính mình đưa lên, một Mệnh mà mình đã dự kiến. Nietzsche quên rằng
Prométhée ở trong tư thế mâu thuẩn, tư thế tranh chấp giữa hai chiều kích đất
trời: Prométhée thực sự chỉ lên tiếng khi Khổ đã được cảm nhận trước đó
từ một cuộc gặp gỡ (=ngộ) với các sứ giả của Zeus, một Zeus vượt lên trên và
ngoài tiên liệu của thế giới tự thân; đồng thời khi lên tiến biện minh thì ngay
nơi lời ấy của Prométhée đã là sự xuyên tạc ý nghĩa của Khổ khi chuyển ý nghĩa
nầy vào thế giới của luận chứng nhân quả theo công lý của con người. Cũng như
Prométhée, Nietzsche vừa mới tiếp cận với đau thương của bi kịch Hy Lạp, trong
nháy mắt Nietzsche đã đọc ý nghĩa đau thương ấy với tiền kiến triết học. Tiền
kiến phải nhận tự thân làm nền đã che mờ âm hưởng thi ca gợi lên cuộc chiến
ngay nơi những khuôn mặt khác nhau của Prométhée, Zeus, Mệnh... Nietzsche cũng
không biết đến một Mệnh kỳ lạ làm cho nàng trinh nữ Io phải khổ, một nỗi khổ không khác
với nỗi khổ của Prométhée. Và cũng vì thế Mệnh của Nietzsche chỉ loay hoay
trong vòng tự thân, trong khung tư tưởng triết học truyền thống, một khung mà
Nietzsche mong phải phá bỏ: Mệnh đó chỉ được hiểu là vòng quay vô nghĩa của
thời gian, biểu hiện sự bền vững của nguyên lý đồng nhất nơi ý muốn ta muốn ta
mãi là ta. Thất thế, trong chương cuối cuốn Ecce homo, một bản văn tự
thuật viết vào năm 1888, Nieztsche đã đồng hóa chính mình với Mệnh trong tựa
đề: ‘Tại sao tôi là một định mệnh’.[19]
Nơi bi kịch Hy lạp và đặc biệt trong bản văn Prométhée
bị trói, con người, trong cảm thức sâu xa làm người, như bị trói chặt bởi
nền công lý dựa trên phán đoán của trí năng con người, công lý của thước đo Mẹ
Gaia, để rồi phải chịu khổ đau để bước vào một chân trời xa lạ khác..., thảm
kịch kẻ vô tội phải chịu khổ như thế thì đúng là một trò đùa tai ác, xét theo
lối cảm nhận của bờ bên nầy. Nhưng, tư tưởng bi kịch của Eschyle không nhằm mô
tả tình trạng tai ác đó, cũng không chỉ tiên liệu khả năng con người có thể
phản kháng điên cuồng trong vòng vi tự thân. Tư tưởng ấy, kỳ thực, chỉ diễn tả
bi kịch làm người như một sự thách đố, thách đố con người đi vào cuộc chiến
vượt qua tự thân.
Bước nhảy,
bước vượt qua đó liên kết Khổ của Prométhée với Khổ của nàng Io, người
trinh nữ được Zeus sủng ái. Không vì bị ghét hay được thương theo một cảm nhận,
một lối phán đoán giá trị nào từ phía công lý nhân quả của con người, nhưng
con người tại thế Khổ vì làm người trong chân tiùnh của mình.
Người trinh
nữ Io xuất hiện bất ngờ, bên ngoài vòng oan nghiệt của Prométhée; nàng
cưu mang một hình ảnh của nhân tính bên cạnh hình ảnh Prométhée; nàng đau khổ
không kém Prométhée, nhưng không vương mắc gì với tội va ïnào, trái lại là vì
được thương yêu bởi Thần Thánh:
Io : “Những giấc mộng đêm đêm không
ngừng viếng phòng trinh nữ của tôi, thì thầm bên tai: ‘ Hỡi thanh nữ có
duyên may, tại sao mãi giữ mình trinh khiết, khi em có thể ước mơ một cuộc phối
ngẫu đầy vinh quang? Vì Zeus rạo rực ước muốn ngươi và muống đồng sàng với
ngươi. Ngươi đừng nên cự tuyệt tình yêu của Zeus, nhưng hãy chạy ngay đến đồng
cỏ xanh tươi Lerne, đến đàn vật và chuồng thú của cha ngươi, để xoa dịu con mắt
say đắm của Zeus” (v. 647-654)
Io đã tâm sự với cha là Inachos về
các giấc mộng của mình; và qua các sấm
ngôn của Loxias, Inachos thoáng nhận ra số phận của Io, hình ảnh ‘con
người được Zeus đến kết duyên’:
“ Io -
.... Inachos nhận được một câu trả lời rõ ràng buộc ông phải tức khác đuổi tôi
ra khỏi nhà khỏi xứ và lang thang tận chân trời.
....Còn tôi bị ruồi trâu cắn xé, bị
bàn tay thần thánh quất roi, chạy từ xứ nầy qua xứ khác” (v.663-666, 681-682),
Trong bản
văn Prométhée bị trói của
Eschyle, song song với các mối tương quan khác nhau giữa Prométhée với Zeus ta
có những Zeus khác nhau:
- có Zeus là sản phẩm của bàn tay Prométhée:
một hình tượng Zeus được tôn vinh khi Cronos (= thời tính gắn liền với con
người) bị hạ bệ.
- có Zeus với quyền năng và sức mạnh đẩy
Prométhée ra khỏi quê hương ổn định của tự thân, đưa Prométhée vào Khổ là khát
khao chân lý mà không một cái gì trong tầm tay con người với đến được để làm
điểm tựa.
- Cũng Zeus ấy bất ngờ đến với con người trinh
nữ ngoan ngùy vô tội Io trong giấy mơ, bên ngoài ánh sáng ban ngày của
sự thật con người với lời lẽ ngọt ngào yêu thương, không tơ vương oán thù, kết
án hay trừng phạt.
- Và một Zeus không nêu danh, nhưng âm hưởng
qua Mệnh mà ngay cả Zeus xuất lộ như lời từ chối mọi tự thân cũng sẽ rút lui,
Một X ‘không thể gọi tên hay chưa có tên trong tầm lắng nghe của con người’. Có
thể nói là một Zeus ‘mà thời chúng ta chưa từng nghĩ đến’: Prométhée
tiên tri báo cho trinh nữ Io rằng Kẻ Không Tên ấy sẽ là hoa trái của sự
nối kết giữa mối tình Zeus và Io, và sẽ hạ bệ bất cứ khuôn mặt nào khác
của Zeus đang xét xử Prométhée và làm khổ chàng.
Chỉ trừ có
một Zeus sản phẩm của con người trong thế giới của tự thân vui biết là không
liên quan đến Khổ làm nền cho bi kịch Hy lạp, ngoài ra, chiếc giường nối kết
Zeus qua lối xuất hiện nào với con người cũng đem lại hơi thở cho nhân tính qua
cảm thức Khổ.
Khổ mà
Prométhée và Io đều cảm nhận là phải lìa nhà mình, xứ mình, là phải diệt
tự thân, là hụt chân trước hố thẳm trong nỗi khát khao Kẻ Khác để thể hiện
tương quan làm nên ý nghĩa nhân tính. Khổ bấy giờ là tương quan làm nên chân
tính của con người tại thế, tương quan được sống nơi cảm thức thiếu vắng Kẻ
Khác.
Khổ lại càng
gian nan vì vùng đất hứa, và bến bờ chân lý cho con người tại thế không phải là
một chỗ nào, một thời nào của thế giới tự thân, nhưng ở ngay trong cuộc chiến
đấu nầy và trong sinh lực Khổ nầy. Eschyle cống hiến cho chúng ta hình ảnh con
người tại thế như là hình ảnh một Prométhée, con người không chết trong tư
thế liên quan với khổ đau: đây là hình ảnh của thời tính căn nguyên hay
thân phận tại thế của nhân tính, một thân phận ‘bị trói’ với hai âm hưởng không
thể rời nhau, - vừa bị trói vào
nghiệp quên lãng của tự thân, - vừa bị trói với tiếng gọi của chân tính. Con
người không chết như một lời thi ca nhắc nhở rằng dấu tích làm người gắn
liền với Khổ là dấu tích không thể xóa được trong bất cứ nỗ lực nào về phía tự
thân. Nói cách khác, ngày nào còn con người tại thế thì Khổ là chân tính của
con người. Và đó là lời tiên tri, một lời nói lạc điệu một Prométhée tâm
sự với nàng Io:
“Io – Sống có ích gì cho tôi? Tại
sao tôi không sớm gieo mình từ mỏm đá gian truân nầy để thân nghiền nát dưới
đất hầu thoát khỏi mọi khổ đau? Thà chết một lần cho xong còn hơn là khổ ngày
ngày suốt cả cuộc đời.
Prométhée – Ngươi khó mà chịu đựng
nổi những thử thách của ta, vốn mang nghiệp là không chết, vì chết thì hẳn sẽ
giải thoát ta khỏi khổ. Nhưng trước mắt ta không thấy khổ đau thử thách của ta
chấm dứt được, ngày nào Zeus chưa bị truất ngôi” (v. 747- 756)
Bi kịch Hy
lạp không đề cao một mẫu mực đạo đức hay đánh phá những phép tắc xã hội đang
chi phối sinh hoạt của Thành Nhã Điển, nhưng cảnh giác rằng mọi lối an trụ vào
bất cứ cái gì trong tầm tay của con người đều là thái độ đào ngũ trong cuộc
chiến làm người. Cuộc vật lộn đầy bi thương giữa một Prométhée bị trói với
nghiệp tự thân và một Prométhée trong những cuộc đụng trán với những khôn mặt
khác nhau của Zeus là nghĩa của nhân tính.
Cuộc chiến
đó luôn hàm ngụ lời chất vấn trường kỳ: ‘tự thân có phải là nền của
nhân tính hay không?’
-
Khổ, ý thức lầm lỗi và mong
được cứu thoát
Trên bình
diện tâm lý xã hội, người công dân Nhã Điễn và thế kỷ thứ V trước công nguyên
như vừa là một tác năng mang trách nhiệm về các quyết định và hành vi của mình,
nhưng như vừa thấy cá nhân mình không là gì hết nếu bị tách ra khỏi các mối
tương giao gia đình, cộng đồng và tôn giáo.
Các tác giả
cuốn “Huyền thoại và bi kịch Hy lạp cổ đại” nhận định về tâm tư của con
người trong bối cảnh chông chênh ấy như sau:
“Trong Thành Nhã Điển vào thế kỷ thứ V, cá nhân đã tự xác định mình
như một chủ thể luật pháp; chủ định của tác năng được nhìn nhận là một yếu tố
nền tảng về trách nhiệm; qua việc tham gia vào một sinh hoạt chính trị mà các
quyết định được thảo luận trước một cách công khai, được thực hiện một cách
tích cực và có tính dân sự, mỗi người công dân bắt đầu ý thức về chính mình như
một tác năng có trách nhiệm để tiến hành các công việc, một cách nào đó người
ấy làm chủ lấy công việc định hướng dòng biến chuyển bất trắc của các biến cố,
nhờ phán đoán, trí thông minh của mình. Nhưng cá nhân và cuộc sống nội tâm
không có được một sự kiên định và tự lập để tạo cho chủ thể thành một trung tâm
quyết định chi phối trên hành vi của mình. Cá nhân mà bị cắt đứt với những căn
rễ gia đình, cộng đồng, tôn giáo thì không là gì cả; không phải người ấy cô đơn
mà không còn hiện hữu nữa. [20]
Và cũng
trong khuôn khổ tâm lý xã hội các tác giả sách nầy đã đặc biệt nói đến cuộc
chạm trán giữa ý thức tội lỗi và trách nhiệm của cá nhân trên bình diện luật
pháp của người công dân:
“Ý thức phạm tội nơi tư tưởng bi
kịch tạo nên một cuộc tranh chấp không ngừng giữa một bên là quan niệm tôn giáo
xưa về lỗi lầm, một vết tích ô uế kết buộc cho toàn một giòng tộc, truyền từ
thế hệ nầy đến thế hệ kia không miễn trừ ai dưới hình thức một hội chứng thác
loạn trời gửi đến, và bên kia là quan niệm mới được luật pháp áp dụng, cho rằng
người phạm lỗi được thiết định như một cá nhân
không bị cưởng bức nhưng đã tự quyết định phạm tội.” [21]
Những nhận
xét tâm lý xã hội trên đây là những tài liệu quí giá về mặt kiến thức giúp ta
hiểu rõ hơn bối cảnh nơi tư tưởng bi kịch xuất hiện trong lịch sử nhân loại. Nhưng
cũng lặp lại lời của các tác giả tập nghiên cứu nầy là tư tưởng bi kịch không
mô tả một tâm tư hay thái độ nào đó của con người vào một giai đoạn lịch sử,
nhưng là đưa con người thành vấn đề cho chính mình. Lối đặt vấn đề con người
như thế thấy rõ nơi bản văn Prométhée bị trói.
Vếùt dơ hay
tội ác nơi hình ảnh Prométhée tức là con người trong thân phận tự thân đã mang
vào mình như một nghiệp chướng không phải dành cho dòng tộc nào trong những
dòng tộc khác nhau, nhưng là cho toàn nhân loại. Sự xung đột trong tư tưởng bi
kịch cũng không hề nhằm mô tả những xung đột tâm lý giữa những hình thái sinh
hoạt và diễn biến xã hội xưa hay nay, tôn giáo hay pháp lý dân sự, cá nhân hay
cộng đồng..., nhưng là sự xung đột gắn liền với chân tính con người tại thế.
- Ý thức
về lầm lỗi và tự thân
Ngay từ
những lời nói đầu trong phần dẫn nhập của bản bi kịch, Khổ và ý thức về lỗi lầm
căn nguyên (hoặc có thể nói như là tội vì đã làm người) được nêu lên như
trực giác nền tảng liên quan đến nhân tính.
Nhưng tiếp
đó, những phân trần của Prométhée về công trạng trộm lửa từ Trời trao cho con
người để con người tự làm nên mình lại không cho chúng ta thấy dấu vết về ý
thức lỗi lầm (trong lời biện minh củamình!). Nói cách khác ý thức về lỗi lầm
như phải tiên liệu có sự gặp gỡ một cảnh vực bên ngoài thế giới của tự thân
(qua Thần Quyền Năng là sứ giả của Zeus) để nhận ra giới hạn của mình và sự
hiện diện của kẻ khác.
“ Thần
Quyền Năng – Vì tài năng riêng của ngươi (Hèphaistos), sức mạnh của lửa, nó
(Prométhée) đã trộm và trao cho những kẻ hay chết. Lỗi lầm ấy nó phải trả cho
Trời và phải biết qui phục uy quyền của Zeus và không được ưu đãi con người như
thế” (v. 7-9)
Prométhée bị đưa ra nơi xa con người để nghe
được lời buộc tội lỗi của mình; nói cách khác thực tại mà Prométhée vốn đã ở
trong ấy đã là một lỗi lầm đối với nhân tính.
Thực tại
được xem là mê lầm được diễn tả như thế nào?
Trước hết
hãy nghe lời trình bày của Prométhée:
Prométhée (nói với ca đoàn) “...Các
ngươi nên lắng nghe những nỗi khốn cùng của kẻ hay chết và xem họ trước đây ấu
trĩ như thế nào, trước tiên ta đã tạo ra những kẻ có lý trí và khả năng suy
xét” (v.443-444)
Lý trí suy
xét ấy giúp hiểu biết đo lường sự vật, và cũng là ánh sáng dọi đường cho công
lý con người.[22] Eschyle đã dùng những
hình ảnh thi ca để nêu lên một số ý niệm căn cơ nhất về lý trí gắn liền
với nền công lý nầy:
- Prométhée
tự giới thiệu là con của Thémis hoặc Gaia: “Mẹ tôi, Thémis
hoặc Gaia, cũng là một vị nhưng tên khác
nhau, đã nhiều lần từng đoán trước tương lai sẽ xảy ra như thế nào, và không
cần phải dùng sức hung hăng, nhưng chỉ cần dùng mưu mà kẻ thắng sẽ chiếm vương
quốc” (v.209-213). Thực
tại của con người hiểu biết là con của Gaia, và trong lý lịch nầy,[23]
Cronos (Thời Gian) phải bị hạ bệ để ‘ý niệm người’ không hề biết
đến sự chết được khai sinh, Zeus (Thần Thánh) không còn là Kẻ Khác trong
tương quan đối với con người, nhưng là một ý niệm tối cao con người tôn vinh
đưa lên ngôi, và Thémis là Công Lý nay được xem là đồng nghĩa với Gaia.
Con người hiểu biết đã biến mình thành Tề Thiên (= Kẻ ngang với Trời) trong một
vương quốc chỉ có mình và những vật dụng thuộc vế mình.
Con người
mới, con người của hiểu biết, đã hạ bệ Cronos (= thời gian qua đi : le temps
qui passe) bằng cách khai sinh thời gian lịch sử của nhân loại văn minh
nghĩa là có các tài năng[24]
chế ngự thiên nhiên, thời gian của con người tự hoàn thành liên tục không biết
đến sự chết (= đưa một sinh vật ấu trĩ đến một sinh vật trưởng thành nghĩa là
vận dụng được toàn bộ lý trí). [25]
Con người
mới ấy là con của Gaia, và Gaia cũng có nghĩa là Thémis: công lý của con người
hiểu biết gắn liền với thước đo sự vật, của công lý bình đẳng, có vay có trả
theo nguyên lý nhân quả mà động lực là trả thù khi có bất công.
- Prométhée:
... Ngay khi được ngồi lên ngôi của cha mình, (Zeus) phân chia các ân huệ
cho những thần thánh khác nhau và chia giai bậc trong nước ông trị vì. Nhưng
ông không đoái hoài gì đến những người hay chết khốn khổ; ông ta còn muốn xóa
sạch giống nầy để làm ra một giống khác. Và không ai ngoài tôi dám chống lại.
Chỉ có tôi bạo gan ngăn cản việc những kẻ hay chết bị bỏ rơi ấy đi vào Địa
ngục. Và đó là lý do tôi phải cúi lưng chịu đựng những khổ đau đáng thương nầy.
Vì thương người, mà tôi bị xét xử tàn nhẩn, và đó là lối đối xử bất công người
ta buộc tôi phải chịu, một cảnh tượng nhục nhằn đối với Zeus.” (v. 247-258)
....
- Ca
trưởng- Nhưng có thể ngươi đã còn quá tốt với con người hơn thế nữa [26] chăng?
- Prométhée
– Vâng, ta đã làm mất đi nỗi hãi hùng khi con người hay chết đối diện với
cái chết.
- Ca
trưởng – Ngươi đã tìm đâu ra phương thuốc chữa được bịnh đó?
- Prométhée
– Ta đưa vào họ những ước mơ ảo tưởng.
- Ca
trưởng – Đó hẳn là món quà quí ngươi đã đem lại cho con người hay chết.
- Prométhée:
Ta còn làm hơn thế nữa: ta còn cho họ lửa.
- Ca
trưởng: Và nay lửa cháy sáng đã ở trong bàn tay con người hay chết sao?
- Prométhée:
Vâng, và họ sẽ nhờ lửa nầy học được nhiều tài nghệ.
- Ca
trưởng: Và chính vì những tội nặng nề đó
mà Zeus....
- Prométhée:
Mà Zeus đối tôi xử tàn tệ, không nương tay với những nỗi khổ của tôi.
- Ca
trưởng: Có phương cách gì chấm dứt
tình trạng đau đớn ấy không?
- Prométhée:
Không có cách gì chấm dứt được trừ quyết định chướng khí bất chừng của ông ta. (v. 247-258)
Trước khi ‘ngộ’
(= tiếp cận với âm vọng từ bên kia bờ) để cảm nhận Khổ và ngay cả khi vì Khổ mà
lên tiếng tự biện minh, con người không lúc nào thoát ra được mạng lưới của tự
thân: tự thân là một hiện tại trường kỳ che dấu Zeus và Cronos, là sự lãng quên
ý nghĩa nhân tính khi chỉ biết dùng thước đo Đất với nền công lý liên quan để
đo nhân tính.
Thật thế,
ngay từ đầu bản bi kịch, sức mạnh của một Zeus ẩn mặt mà Prométhée không hề
tiếp cận và không thể tiếp cận, đến với Prométhée và lôi Prométhée ra khỏi tự
thân. Tự thân bị đóng đinh để Prométhée Khổ, nghĩa là tiếp nhận một sinh lực,
đi vào một chiều kích, kết dệt nên những tương quan khác với những tương quan
của trí năng hiểu biết của con người và nền công lý xây dựng trên nền tảng liên
hệ. Tự thân và Khổ là hai khả tính căn cơ của nhân tính.
Nhưng âm
hưởng lời bên kia đến với Prométhée làm cho Prométhée khổ để cảm ứng được chiều
kích hoàn toàn khác lạ nơi nhân tính, ngay khi được tiếp nhận, thì đã hóa kiếp
làm thành ‘lời con người gọi tên sự vật’. Khổ là ấn tích nối kết lời người và
âm hưởng lời bên kia bờ, là sự nối kết trong cảm thức thiếu vắng, xa cách, thì
tức khắc bị ánh sáng của hiểu biết sự vật che mờ ý nghĩa: Prométhée đã sớm đưa
khổ ấy vào thế giới tự thân để biện minh và làm lạc hướng ý nghĩa nguyên sơ của
Khổ.
- Khổ mất đi ý nghĩa thi ca và bi kịch trong
khuôn khổ thắc mắc về vấn đề nhân tính, để chỉ còn được hiểu là sự đền bù một
tội ác, một vi phạm công lý, một sự trả thù cần thiết để tái lập sự cân bằng
của công lý bình đẳng, công lý có vay có trả theo nguyên tắc nhân quả nơi khả
năng hiểu biết sự vật. Mệnh như là Lệnh, là uy lực từ chân lý của nhân tính bất
chấp những ước muốn, toan tính ‘tự làm lại’ của tự thân, nay chỉ được hiểu là
vận may vận rủi dựa trên lối đánh giá của lý trí con người.
- Khổ là dấu tích của Mệnh, là sự kiên cường
của chân tính luôn buộc chặt với con người; nhưng tự thân cũng là khả tính
thách thức chân tính ấy, ngày nào con người còn kẻ hay chết. Mỗi lần Khổ dấy
lên là mỗi lần tự thân ‘làm lại’[27]
một hình ảnh con người theo ý của mình; và mỗi lần như thế tưởng chừng như
‘khổ’ sẽ không còn nữa. Tài khi nào cũng muốn xóa Mệnh, nhưng lại không thể xóa
được Mệnh [v. 514, Prométhée : ‘Tecnh (=Tài) yếu kém vô cùng so với Anagkhz (=Mệnh)’]
- Bi kịch của cuộc chiến giữa Khổ và tự thân
là ý nghĩa của thực trạng con người: một thực trạng căn nguyên có thể khổ để nhớ,
có thể vui để quên, có thể có hy vọng để khát mong một chân tính khác với tự
thân, nhưng có thể ‘phạm tội ác’ làm lại một nhân tính không thật theo ý mình,
với tài năng ‘đo đất’ mình có trong tay. Nói theo lời của Eschyle qua miệng của
Thần Quyền Năng trong bản bi kịch: có một Prométhée tiên tri của con
ngưuời hiểu biết (homo sapiens),
tiên tri mộât nhân loại tiến bộ, văn minh nhiều tài năng, nhưng có một
Prométhée khổ đau tiên tri về con người gặp nguy cơ của nghiệp tự thân đang tìm
cách thoát khỏi mạng lưới hiểu biết để lắng nghe âm hưởng nhắc nhở chân tính
con người.[28]
Đến đây, ta thấy bi kịch Hy lạp cảnh giác tâm
thức người văn minh thành Nhã Điển đương thời về nguy cơ đánh mất khả năng tư
tưởng, nghĩa là khả năng thắc mắc về nhân tính của mình khi dừng lại trên nền
công lý theo thước đo của lý trí con người. Qua lời biện minh hùng hồn của
Prométhée về con người hiểu biết, con người mang lại ánh sáng văn minh và trật
tự cho cuộc sống xã hội, người ta thoáng nhận ra một Prométhée bị mắc cạn trong
một trạng huống mâu thuẫn trùng trùng điệp điệp:
- Zeus do bàn tay con người làm ra đã đoạt
ngôi Cronos, làm cho con người thành thần thánh, nghĩa là chuyển con người bằng
xương bằng thịt (con người hay chết) thành những ý niệm trường cữu bên ngoài
thời gian, thành một giống người không sợ chết: nhưng Zeus ấy tại sao lại chống lại việc làm của một
Prométhée là chủ làm nên mình?
- Nơi vùng đất trời của ‘con người hiểu biết,
con người không sợ chết, con người nắm
ánh sáng của lửa trong tay để làm nên mọi sự vật theo chủ định của mình, con
người được đo lường, xét đoán về giá trị dựa trên công lý của nguyên tắc nhân
quả như bất cứ một đồ vật nào’, thì khổ đau làm sao hiện diện để phải lên tiếng
biện minh?
- Zeus (mà Prométhée hiểu biết đưa lên ngôi)
là nguyên nhân nền tảng điều hành mọi sự một cách công bằng và hữu lý tại sao
bổng biến thành Zeus là căn nguyên những gì là vô tâm, vô trí ngăn cản lợi ích
tiến bộ của con người?
Trạng huống
mâu thuẫn nơi phản ứng của Prométhée diễn tả cuộc chiến bên trong của thân phận
con người: một Prométhée như buộc phải mang nghiệp lạc lầm nhưng đồng thời với
nghiệp lạc lầm ấy là một nghiệp mang vết thương đau ấn tích của nỗi khát khao
chân tính của nhân tính. Bi kịch không phải là khổ đau hay nỗi phẩn uất trong
cuộc tranh chấp giả tưởng giữa một Zeus ‘theo lối nghĩ của Prométhée’ và một
Prométhée không những vô tội mà còn có công trong nỗ lực tự làm nên chính mình.
Bi kịch chỉ có ý nghĩa khi Khổ ụp đến trên thực tại con người và làm cho toàn
bộ thực tại ấy cảm nhận khổ; chuyển mỗi sinh hoạt con người thành một bãi chiến
trường giữa tự thân và chân tính. Đằng sau những lối chống chế một trăm ngàn
cách khác nhau, mâu thuẩn với nhau, với những lối nói khác nhau của ‘những
Prométhée’ qua những nền văn hóa, qua những trường phái tư tưởng dị biệt, qua
những thời kỳ thượng cổ, trung cổ hay hiện đại, với cách diễn tả bằng thơ, bằng
toán, bằng âm nhạc hay hình ảnh của con mắt..., thì theo tư tưởng bi kịch các
lời nói ấy đều đã được nối mạch với nguồn Khổ ẩn kín là dấu ấn của nhân tính.
Prométhée đã
nói đến công lao, hình phạt, trả thù... theo khả năng gọi tên sự vật, theo lý
trí tiếp cận sự vật, lý trí của nền công lý bình đẳng và dựa trên nguyên tắc
nhân quả. Nhưng trước lời tra vấn về chân lý của nhân tính, con người không thể
làm cách gì khác hơn là vận dụng tài trí sẵn có trong tay, tài trí ‘đo đất’ để
đo chính mình: hành động khai nguyên đó khai sinh tự thân, là lỗi lầm căn
nguyên của thân phận làm người.
Ý thức lầm
lỗi chỉ xuất hiện khi con người trong thực tại nối lại với nguồn Khổ, khi lắng
nghe được lời chất vấn về chính nền tảng chân lý của tự thân.
-
Khổ và giải thoát
Nếu Khổ (trong
lời biện minh của Prométhée tiếp sau phần dẫn nhập của bản kịch) như cảm thức uyên nguyên về vấn đề nhân
tính đã vì nghiệp tự thân của con người mà bị xuyên tạc ý nghĩa để chỉ được
hiểu là một giá trị tiêu cực, một sự trả thù, một hình phạt trong khuôn khổ của
công lý có vay có trả dựa trên phán đoán, đo lường để hiểu biết sự vật, thì
cũng Khổ uyên nguyên ấy sẽ được diễn tả ở phần sau (trong cuộc đối thoại
giữa Prométhée và trinh nữ Io) một cách kỳ lạ vượt lên trên mọi tương quan
khả dĩ của trí năng hiểu biết.
Khổ của nàng
trinh nữ Io phải chịu trong thân phận làm người không còn được xem là do
lỗi phạm gì nữa từ phía con người. Có thể nói nàng Io được Khổ vì
Zeus yêu thương nàng và đến đồng sàng với nàng đến độ làm cho Héra là vợ Zeus
phải ghen tương. Mối tương quan với Zeus, với thần thánh trong cảm thức yêu
thương vượt ra mọi suy tính chờ đợi. Ca đoàn trong bản kịch lên tiếng về khổ
đau và thân phận con người qua nàng Io như sau:
“ Ca đoàn – Khôn ngoan, vâng khôn
ngoan, là kẻ biết suy nghĩ và nói lên châm ngôn nầy: tốt nhất nên kết thân với
người đồng hàng và đừng đèo bồng đi lại với những hạng người giàu sang quyền
quí.
Hởi các Tỳ nữ bất tử của Mệnh, xin
đừng bao giờ bắt gặp tôi trong giường Zeus! Đừng gán tôi làm vợ cho người cõi
Trời! Tôi run bắn lên khi thấy Io, người trinh nữ ngại yêu thương, kiệt lực vì
chạy trốn cuộc đuổi bắt khốn khổ của Hera.
Đối với tôi, một cuộc hôn nhân với
người đồng hàng không có gì đáng sợ. Nhưng xin tình yêu của một vị thần cao cả
đừng dừng lại trên tôi. Vì đó đúng là một cuộc chiến không chịu nổi, vượt quá
nguồn sinh lực của tôi. Rồi ra tôi sẽ thế nào; vì tôi làm sao thoát được ý muốn
của Zeus” v. 887 - 900
Khổ đau làm
người không vì một lỗi phạm nào với những tơ vương của lối đo phán đoán nhân
quả, trả vay của công lý dựa trên lý trí. Khổ đau ở đây là thân phận bị buộc
trói, bị kéo lên để nối kết tương quan với Zeus trong yêu thương.
Song song
với lối trình bày nỗi khổ làm người trong tương giao kỳ lạ với Zeus, Eschyle
dùng miệng Prométhée, một Prométhée như ở bên ngoài vòng vi tự thân để nói
lời tiên tri, loan báo một giao ước mới.
Khổ đau do tương quan yêu thương giữa Zeus và Io sẽ đem lại hoa trái giải phóng
khỏi ý niệm uy quyền và xử phạt còn tơ vương với lối cân đo của con người.
Người con của Zeus và nàng Io sẽ hạ bệ Zeus, Chủ của Thần Quyền Năng và
Xử phạt.
Io -
Có thể nào Zeus bị mất quyền vào một ngày nào đó?
Prométhée – Ta nghĩ rằng hẳn ngươi
sẽ vui sướng khi chứng kiến biến cố nầy
Io – Hẳn nhiên rồi, sau bao khổ đau
mà Zeus bất ta phải chịu.
Prométhée – Sự việc sẽ như vậy,
ngươi cứ chắc như thế.
Io – Nhưng vương quyền ấy do ai tước
bỏ?
Prométhée –Do tự chính ông ta, vì
những chướng khí bất chừng nhà ấy.
Io – Bằng cách nào? Giải thích đi,
nếu ngươi làm nổi đều đó.
Prométhée – Ông ta sẽ kết ước một
hôn nhân mà ngày nào đó Ông ta sẽ ân hận.
Io – Với một nữ thần hay với nữ phàm
nhân? Nói thử đi nếu còn nói được.
Prométhée – Bất hạn là ai? Ta không
có phép nói.
Io – Có phải do người hôn thê ấy mà
ông ta bị truất ngôi?
Prométhée – Nàng sẽ sinh một người
con trai uy dũng hơn cha nó.
Io
- Và Ông ta không cách gì tránh tai ách nầy sao?
Prométhée – Không cách gì khác, trừ
phi ta thoát ra được xích xiềng nầy...
Io – Ai mà tháo gỡ được xiềng xích
ấy cho ngươi ngoài ý của Zeus?
Prométhée – Một trong những hậu duệ
của ngươi: Mệnh muốn như thế.
...”
Khổ không
những không tơ vương tội lỗi, oán thù nhưng là dấu chỉ của tình yêu thương điên
dại đến độ nâng kẻ hay chết lên làm vợ của Trời. Hình ảnh Trời trong uy lực cấm
đoán, như oán như thù con người sẽ bị lật nhào để đầu hàng người con của tình
yêu giữa Trời với người. Nói cách khác bên trên hình ảnh đối nghịch nhìn từ tự
thân để diễn tả cuộc gặp gỡ đất-trời nơi con người, nay là Khổ như sự tương
phùng giữa hai kẻ khác nhau. Sự nối kết lạ lùng đó đưa con người trong thân
phận ‘hay chết’ đồng sàng với Thần Thánh, và tự nó là chung cuộc. Khổ uyên
nguyên ấy là sự sống, là ý nghĩa toàn vẹn của nhân tính, là chân tính con người
tại thế.
Cuộc chiến
về ý nghĩa về Khổ giữa hai cách hiểu: Một bên là ý nghĩa của một thực tại trước
mắt được cảm nhận và được đánh giá bởi con người hiểu biết Prométhée, và Khổ
chỉ được hiểu là hậu quả của một sự vi phạm công lý. Một bên là ý nghĩa thi ca
gợi lên Khổ là sự gặp gỡ bất ngờ, là mối tương quan khó khăn, kỳ lạ làm nên sức
sống của nhân tính, một nhân tính vượt qua tự thân. Cảm nhận cuộc chiến giữa
hai ý nghĩa về Khổ nầy nơi con người là tư tưởng bi kịch, làm người chiến sĩ để
luôn ở trong cuộc chiến nầy, đó là hoàn
thành nhân tính.
Hoàn thành
nhân tính trong cuộc chiến giữa tự thân và Khổ có tiên liệu một tổng hợp nào,
và một tổng hợp chung cuộc như cuộc giải phóng tận căn hay không?
Qua câu trả
lời của Prométhée cho Io về ý nghĩa Khổ như phải đóng đinh và treo tự
thân lên giữa trời mà Prométhée đang gánh chịu, cũng Khổ đó nhưng được cảm nhận
như cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa chàng và Zeus lạ mặt nơi xứ lạ (ở phần nhập đề) hoặc
như mối tình trong giấc mộng giữa Zeus và nàng trinh nữ Io, thì nhân
tính trong chân tính của mình là Khổ. Mọi tổng hợp là làm lại nhân tính, là đã
dừng lại chân trời của tự thân.
Thế nhưng,
một bất ngờ, một bước nhảy ra khỏi cả khuôn khổ tư tưởng bi kịch Hy lạp.[29]
Prométhée – Không cách gì khác, trừ phi ta thoát ra được xích xiềng nầy...
Io – Ai mà tháo gỡ được xiềng xích
ấy cho ngươi ngoài ý của Zeus?
Prométhée – Một trong những hậu duệ
của ngươi: Mệnh muốn như thế... v.
757- 772
Sấm ngôn
nầy làm cho nàng Io sững sờ :
Io – Sấm ngôn ấy không cách gì hiểu
nỗi?
Prométhée- Ngươi cũng đừng tìm cách
để biết Khổ của ngươi cho đến kỳ cùng V. 775-776
Cuộc chiến
tối hậu và Khổ tối hậu để vượt qua tự thân, mất luôn tơ vương về xung đột và
dấu tích tội căn nguyên, đó là bước nhảy vọt vào cảnh giới khác hoàn toàn xa lạ
vượt lên thế giới nhân quả, trước sau, bên trên bên dưới, trong ngoài của tự
thân: tương quan kỳ lạ đó là thế giới vượt lên trên thước đo sự vật, là âm
hưởng của chữ ai vượt lên bất cứ kiến thức nào về một cái gì, dù
cái gì đó là Zeus, và đó là thành quả của mối tình giữa Zeus và nàng Io.
[1] Xem G. GUSDORF, Mythe et métaphysique, Flammarion,
Paris, 1984, tr. 43: “Les mythes sont
chiffres d’humanité”
[2] Jean Pierre VERNANT et
Pierre VIDAL-NAQUET, Mythe et tragédie en
Grèce ancienne, Édit. La
découverte, Paris, 1989, tr.” 7, 14
[3] Sd tr.
21-22 .
[5] Sd.
tr. 31.
[7] Xem PLATON, Protagoras, 321 - 322 .
[8] Ngươi đây là Thần
Thánh.
[9] Fr. NIETZSCHE, La naissance de la tragédie, No. 9.
[10] Geneviève DROZ, Les mythes platoniciens, Seuil, 1992 ,
tr. 31.
[11] Xem lối trình bày của M. HEIDEGGER về ý chí quyền lực của Nietzsche : cf. Le mot de Nietzsche “Dieu est mort, in Chemins qui ne mènent nulle part, tr.
283: “La volonté se veut elle –même. Elle se surpasse elle –même. De la sorte, la volonté en
tant que volonté se veut au-delà d’elle-même, et doit ainsi en même temps se
porter au-dessus et en avant elle-même”
[12] cf. v. 209-210.
[13] cf. v .459 461 :“J’inventai aussi pour eux la plus belle de
toutes les sciences, celle
du nombre...”.
[14] cf. v. 507 : “Un mot
t’apprendra tout à la fois: tous les arts des mortels viennent de Prométhée”.
[15] Cf. v. 1-2, Pouvoir: Nous voici arrivés sur le sol d’une contrée
lointaine, au pays des Scythes, en un désert sans humains.
[16] cf. v. 518: Prométhée - Il
(Zeus) ne peut échapper à sa destinée.
[17] cf. v 1-2.
[18]cf. v. 55-56: Pouvoir –
Passe –les-lui au tour du bras et frappe
de toutes forces avec le marteau et cloue – le aux rochers. v 67-68: Maintenant enfonce- lui hardiment
la dent de ce coin d’acier à travers la poitrine, et frappe ferme.
[19] F. NIETZSCHE, Ecce homo, tựa đề chương cuối “pourquoi
je suis un destin”.
[20] Jean-Pierre VERNANT,
Pierre VIDAL – NAQUET, Mythe et tragédie
en Grèce ancienne, Éd. La
Découverte , Paris, 1989, tr. 73 .
[21] Sđd, tr.72 .
[22] Không phải đợi đến các
tác phẩm của Platon sau nầy, chúng ta mới khám phá ra trào lưu được gọi là của
những người hiểu biết. Cũng như Socrate
sau nầy, Eschyle đã cận kề với trào lưu ấy, và cả hai vị đã nhận ra bi kịch của
thân phận làm người gắn liền với tự thân mà con người hiểu biết (homo sapiens)
là một chứng tá trong lịch sử.
[23] Chúng ta sẽ gặp lại lý
lịch mới của con người hiểu biết qua lối trình bày tương tự của Sophocle trong
bi kịch Oedipe Vua, khi Oedipe ăn nằm với chíng Mẹ Jocaste của mình để tạo một
thế hệ người mới, trong đó chỉ còn Oedipe một mình bá chủ: vừa là con, vừa là
chồng vừa là cha.
[25] cf v. 443-443
[26] Sau khi cứu giống
người khỏi bị Zeus tiêu diệt, một Zeus do chính Prométhée đưa lên ngôi
[28] cf. v. 85-87 : “Pouvoir:...C’est bien à tort que les dieux t’appellent Prométhée; c’est toi-même
qui as besoin d’un Prométhée pour savoir comment tu te dégageras de ces noeuds
savants.”
[29] Thực vậy, cuộc chiến
hứa hẹn sẽ hoàn thành nơi sự toàn thắng do thành quả của mối tình Zeus và Io không có dấu vết nào
tương tự nơi các bản bi kịch khác của Hy
lạp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét