Chương
VII
Hòa bình theo Nho học
Nói đến Nho giáo, ta nghĩ
ngay đến Khổng tử và các bộ sách và kinh được xem là mẫu mực: Tứ Thư và Ngũ
Kinh. Các tác giả thâm cứu Nho học đều cho rằng phần cốt lõi trình bày tư tưởng
đó tóm lược trong chương đầu của cuốn Trung Dung.
Ở ngay trong mấy câu của
chương nầy, hòa bình được gọi là Trung và Hòa. Và hẳn đó cũng là
toàn thể nội dung Nho học về cuộc sống con người và xã hội.
Trung là gốc lớn của
thiên hạ,
Hòa là đạt Đạo, tức là
thực hiện trọn vẹn Đạo của con người [1].
Và ngay từ đầu sách, Tử
Trình Tử lại định nghĩa ngay chữ Trung: Không thiên lệch, không sai lạc là
Trung [2].
Đạo là Trung, không dời đổi
theo sự hưng suy của lịch sử hay cảm nghĩ tùy thích của bất cứ ai. Dẫu con người
trong thực tế đã tạo ra nhiều đường đi theo ý mình, dẫu con người có xa Đạo,
nhưng :
Đạo không xa con người, và
con người không được xa đạo giây phút nào. [3]
Và trong thân phận đổi thay
của xã hội con người, của phán đoán giá trị tùy lúc, của hoàn cảnh bất cập
không thấy không nghe rõ Đạo đó, người quân tử tức là kẻ muốn ở trong Đạo nầy cần
phải khiêm cung, cẩn trọng.
“Trung” không dời đổi,
không có nghĩa là một cái gì vật chất hay một tư tưởng bất động, nhưng là
nguyên sơ của Trời Đất vốn cho con người như thế. Sách Trung Dung nói rõ :
Vui, giận, buồn, sướng
chưa phát ra, đó là Trung.[4]
Chưa phát ra, như “cây sự sống”
giữa vườn Eden trước khi Adam đưa lên hái. Đây cũng là lộc, ơn phúc Trời
cho đầu năm người dân ta đi tìm.
Kinh Thư, cũng nói như thế:
Lòng người sai lệch;
nơi sâu kín của Đạo thì ẩn kín; hãy thực thà và một mực giữ lấy Trung (tức là Đạo
Tâm) [5].
Khi thực hiện vui, buồn, giận,
sướng mà hợp với Đạo thì gọi là Hòa.[6]
Đây là điểm cam go của Nho học.
“Trúng tiết”, trúng cũng là trung; tiết là thời gian, và
cũng có nghĩa là một đốt tre trong cây tre. “Thời gian của Trung” là thời
hòa giữa việc làm của người với Ý của Đạo. Nói cách khác, con người làm, nhưng
không phải tự mình, mà làm như cánh tay của Đạo làm.
Nhưng với tâm vốn có nguy cơ
sai lạc (di nguy), làm sao thực hiện được cụ thể Đạo luôn ẩn kín, vượt tầm
tay con người, để tạo một thời của Đạo? Nói cách khác, với xã hội vốn đã thiên
lệch, với tâm con người vốn hướng đến xằng bậy và tội ác, ai thực hiện nổi trọn
vẹn Đạo giữa đời nầy để chứng thực có cảnh thái hòa?
Ở chương 11 Sách Trung Dung trả lời như sau: Đạo
đó hạng “phu phụ chi ngu” cũng biết và làm được, nhưng thánh nhân đến chỗ
cùng tột cũng bất cập. Và ở chương 4, sách trích lời Khổng Tử nói “Đạo không
còn thi hành được nữa chăng!” [7]
Để trả lời về cái cùng tột
của đạt đạo, tức là hòa, Khổng Tử thường gợi đến một thời
Nghiêu Thuấn xa xưa, hình ảnh của một thời không phải là thời con người lịch sử,
nhưng có thể nói “một vườn Eden” nằm trong Đại-ký-ức.
Vào những chương cuối của
sách Luận ngữ, nhiều ẩn sĩ tân-Lão-học bi quan nhắc Khổng Tử và đồ đệ ông là
nơi xã hội trần thế không còn cách gì tạo hòa bình được; tốt nhất là nên lui về
ở ẩn cho yên thân:
Có phải là người
biết không thể làm được mà cứ làm ư ? [8]
Khổng Tử cho rằng :
Muốn sạch cho riêng mình, mà để loạn cho luân
thường xã hội sao !
Người thuận Đạo ra làm kẻ
sĩ, cứu dân, là để trọn nghĩa làm người của mình.
Đạo không ai thi hành được, thì ta đã biết lâu
rồi. [9]
Việc tạo được hòa bình trần
thế, nơi xã hội, Khổng Tử cho đó là sự sắp xếp của Trời, và có thể nói tùy lòng
người, là những kẻ khác mình nữa. Nhưng đạo làm người trung thực vẫn là cố lắng
nghe Đạo và làm theo tiếng gọi của Đạo.
Và nghe ở
đâu?
Hẳn nhiên, Đạo không phải tự
mình làm ra. Ngay cả Khổng Tử cũng nói rằng người chỉ truyền lại ký ức thuở
Nghiêu Thuấn (Đại Ký Ức).
Trong các biểu tượng khác lấy
từ hình ảnh cuộc sống xã hội, của vận chuyển sự sống nơi thiên nhiên, Nho học cố
tìm cách nói đến Đạo qua nhiều phương cách:
- Trước hết trong Kinh Dịch,
toàn bộ 64 quẻ là con số tượng trưng cho đời sống con người, cũng như Nguyễn Du
dùng chữ 100 năm trong cõi người ta. Nếu Nguyễn Du thấy mỗi khoảnh khắc đời người
là đấu trường giữa tài và mệnh, giữa đạo do người và Đạo Trời,
thì nơi Kinh Dịch gợi lên sự hiện diện của Đạo Trời không đổi nơi cuộc sống
muôn hình, vạn trạng của con người trong thời gian. Trung Dung tóm lại ý đó khi
nói Đạo không xa người trong một giây một phút của đời sống đổi thay, mặc dầu Đạo
không thiên, không dịch.
Và con đường để thấy Đạo,
múc lấy sức sống của Đạo để biết được vị trí của mình là phải đi sâu vào lòng
mình, tìm nơi bao dung ẩn kín, không phải chỉ bằng lòng với những kiến thức của
thế giới đổi thay bên ngoài:
Nương theo mực thước trời đất,
đừng có tự ý chế biến,
Biết thấu đáo mọi
việc để lấy Đạo cứu thiên hạ,
đừng sai trái,
Khi xuất xử đừng
phiêu lưu,
Vui đạo trời và biết
rõ phận mình, đừng lo ngại
Thế nào là an thổ ?
Cung thổ được biểu thị bằng
số năm (5). Con số năm (5) của Trung hoa là sự nối kết giữa số một (1), tức Mẫu
mực đo lường cái khác, và bốn (4) tượng trưng cho sự đổi thay, hữu hạn của thời
gian không gian. Số năm ấy cũng là số hai (= đất) cộâng với số ba (=trời).
Và nếu lấy hình ảnh của
không gian, ta có Nam, Bắc, Đông, Tây và Trung tâm. Nếu lấy hình ảnh của các
thành tố vật chất ta có Thủy, Kim, Mộc, Hỏa và Thổ là trái đất chứa đựng các chất
khác.
Biểu tượng nầy gọi là ngũ
hành, kỳ thực đó cũng là cách nói biểu tượng về bản tính con người nơi trần
thế. Trọn đạo làm người là làm sao sống hài hòa Đất-Trời, như trật tự bền vững
nối được Trung tâm, trung cung là nơi vua ngồi trị vì và bá quan bốn phương trợ
giúp. Khi không có Trung Cung
(Thổ), thì không còn vua, mất vương đạo; và hỗn loạn bắt đầu, mỗi quan tự xưng
vua, để triệt hạ các quan khác. Đó là cảnh bá đạo với ý nghĩa là tiếm
quyền, lầm lỗi.
Hình ảnh của trật tự xã hội
một thờiù gợi lên một trật tự đạo lý sâu xa liên quan đến chân tính con người.
“An thổ”, tức là cư ngụ nơi
quê hương thật của con người, là chốn cư ngụ và gặp gỡ của Trời - Đất. Quê
hương đó sâu kín nơi Tâm duy vi. Đi vào bên trong Tâm Đạo không phải tìm lấy ước
mơ, ý muốn riêng của mình, vì bên trong theo nghĩa nầy cũng chỉ có nghĩa là
“tâm duy nguy”. “An thổ” là “doãn chấp quyết Trung” nơi Đạo ẩn kín giúp
con người mở ra với Trời cao và người bên cạnh. Đạo tâm đó cũng gọi là nhân,
tức là “người gặp Trời Đất”. Khi đức “Nhân” hiểu theo nghĩa nầy được tồn dưỡng,
bấy giờ lòng yêu thương kẻ khác mới trọn nghĩa.
Yêu thương (cố năng ái)
phát xuất từ đức nhân [11], hay nhân tính
chân thật, không phải làm điều tốt cho ai theo ý mình, nhưng thực hiện mối
tương giao chân thật, tương kính, tôn trọng tự do theo chân lý của Đạo.
“Hòa bình” theo Nho học như thế là trật
tự hài hòa giữa Trời và Đất, giữa cộng đồng nhân loại với nhau.
“Nhân” thường được
con người tân thời ngày nay hiểu là Mẫu Mực Con Người hay một Ý Niệm Người do tự
mình hoặc ý thức về chính mình, hoặc do lịch sử của nhiều thời đại xây đắp nên.
Các chủ thuyết nhân bản tân thời Tây phương thường gọi “ý niệm con người tự làm
nên mình qua lịch sử của riêng mình” là Nhân Loại.[12]
Còn Nho học thì sẽ gọi “nhân loại tự tôn nầy” là “bất nhân tạo bất hòa”, vì đây
là ý niệm phát sinh do những kẻ không sợ trời đất gì nữa. “Nhân” nơi Khổng
Tử có nghĩa là “con người” trong tương quan với “Trời” (nét ngang ở trên) và “Đất”
(là nét ngang ở dưới), như chữ Vương trong vương đạo. “Nhân” đó là “mệnh”
theo nghĩa là tính uyên nguyên của con người, không do nơi bất cứ quan điểm, ý
muốn riêng của ai, của thời đại nào làm ra. Nguyễn Du đã hiểu thâm sâu sự khác
biệt nầy khi nêu lên sự tương khắc, mâu thuẫn giữa “tài” (=người tự đánh
giá, làm nên mình) và “mệnh”. ‘Nhân’ của Nho thể hiện nơi sự
thương yêu người, như Khổng Tử đã trả lời cho Phàn Trì, trong sách Luận ngữ:
Phàn Trì hỏi: Nhân là gì?
Nhưng yêu người thế nào mới
đúng đạo nhân, vì biết bao lần nhân danh lòng yêu người, con người xâm phạm đến
nhân phẩm kẻ khác.
Đến đây Khổng Tử mới đưa ra
những chỉ dẫn thực tiễn. Khi trả lời cho Tử Cống, Ngài nói cách tiêu cực về yêu
người là thứ :
Đó là lòng thứ: việc gì mình không muốn, chớ
đem làm cho người khác. [14]
Và một cách tích cực :
Thế nào là đạo nhân ư? đó hẳn phải là bậc
thánh! Ngay cả Nghiêu Thuấn còn chưa đạt được! Vun trồng đạo nhân, là muốn xây
dựng cho người như mình muốn xây dựng cho mình, muốn cho người được thành đạt
như mình muốn vui đó cho mình. Cố gần với người trong việc thực hành như thế,
có thể nói là phương pháp thực hiện đức nhân. [15]
Nhưng việc đó không phải dễ
làm, vì “tâm” người “duy nguy”, không những không làm nổi, mà còn không thấy rõ
điều mình muốn thế nào cho đúng với chân lý để tạo điều tốt ngay cho chính
mình.
Vì thế, trước thực tế nhân
sinh, Khổng Tử mới nói với Nhan Uyên :
Sửa mình theo lễ là thực hiện
đức nhân [16]
Và tiếp đó người nói, không
phải “lễ” thì không nên nhìn, không nên nghe, không nên nói, không nên làm.
Sửa mình theo lễ thực
hiện đức nhân, cũng gọi là kính [17]
Tiên vương thực hành lễ, là vâng Đạo trời để
chửa trị tính người. [18]
Sự giáo hóa của lễ rất tinh tế, ngăn cấm điều
xấu ngay khi chưa thành hình, làm cho người mỗi ngày gần điều thiện xa điều lầm
lỗi, mà tự mình không biết. [19]
Lễ là gì sao, là để đưa về đạo Trung vậy [20]
Các hình thức sinh hoạt bên
ngoài, tùy hoàn cảnh, tùy tâm thức văn hóa gợi lên tâm tình “kính trọng” gọi là
“lễ nghi”. Nhưng cốt lõi của “Lễ” là lòng kính trọng điều
tai thường không nghe, mắt thường không thấy...
“Yêu người” là nhân
ái, nhưng kẻ trước mặt mình luôn cao cả hơn những gì mà sức lực, tài trí tự
nhiên có thể biết được. Nên “yêu người” đúng đạo nhân trước hết
là kính trọng người nơi sự cao cả của họ, mà các cách thẩm định giá trị của
mình, của lịch sử xã hội không thể đạt đến được.
Nhưng xã hội có thể biến lễ
nghi bên ngoài (vốn là phương cách tùy thời để tỏ bày sự kính trọng con người
và Một ai đó cao hơn con người) trở thành mối lo duy nhất bất chấp ý nghĩa bên
trong, và bất chấp luôn Đấng mình phải kính trọng. Bấy giờ người ta chỉ biết trọng nghi lễ chứ
không còn trọng người nữa; và nghi lễ biến thành một hình thức xã hội khắc nghiệt,
giả hình, vô nghĩa. Nói theo ngôn ngữ nhà Nho, xã hội đã chỉ biết “dụng” mà
đánh mất “thể”, lấy lễ nghi mà xóa sạch “lòng kinh trọng”:
Khổng Tử nói: người mà bất nhân, thì lễ mà làm
gì?
[21]
Qua các thời đại lịch sử của
dân tộc ta, không phải bất cứ ai cũng thấu đáo được hết ý nghĩa của đạo Nho,
phân tích thành hệ thống theo yêu sách của trường ốc, bác học. Hơn thế nữa,
cũng có những cách hiểu, cách áp dụng đạo Nho lấy “dụng” làm “thể”, nên có những
hiện tượng phản kháng nếp sống cao ngạo, giả tạo và khắt khe của lớp “quan lại
hủ nho”, những cách đối xử thiếu tình nghĩa trong gia đình và ngoài xã hội, những
lễ nghi rườm rà, bất nhân… Sứ điệp nào, tôn giáo nào cũng gặp nguy cơ như thế
khi tiếp cận với lịch sử xã hội. Nhưng đằng sau những hiện tượng xã hội tiêu cực
trên đây, hồn của đạo Nho vẫn thấm nhập vào nếp sống sinh hoạt của mỗi một người
con dân Việt; và đôi khi chính cái hồn đó là sức mạnh tố giác những hình thức
nhiêu khê, giả tạo của nếp sống “nho nhã” giả hình.
Từ triều đình đến cuộc sống
làng mạc, từ cách cư xử bạn bè, thân quyến đến nếp sống gia đình... Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín được đề xuất như những mẫu mực tạo một trật tự nhân sinh
tình nghĩa. Từ vua chúa đến thứ dân, từ người có ăn học đến người dân quê không
biết đọc biết viết…, thì “lễ” là biểu lộ sự kính trọng kẻ khác, luôn được cảm
nhận như giềng mối của các tương quan xã hội.
Mỗi người biết kính trọng kẻ
khác, vì tất cả đều phải kính trọng “Chí Thiện”, cái Đạo sâu kín mà ngay cả Nghiêu
Thuấn cũng còn bất cập. Cố tâm thực thi Đạo, gần, thật gần với người, nhưng
không do người làm ra và không bao giờ thấu đáo hết trong thân phận con người của
mình, đó là “nghĩa” (= làm điều phải làm).
Nên kẻ kiến tạo hòa bình không ảo tưởng cho rằng
một trật tự nào đó nơi dương gian nầy bất kỳ, theo ý con người bày ra, là Hòa
thật sự. Nhưng từng bước đi của mình, con người
luôn cố gắng noi theo ánh sáng của Đạo nơi Đại Ký Ứùc, nơi Chí Thiện. Nỗ
lực liên tục nầy là “nghĩa” của con người.
Chữ “nghĩa” của Nho giáo,
cũng như dân Việt Nam ta hiểu không nằm trong khuôn khổ sự hiểu biết sự vật.
Nhưng “nghĩa” là bổn phận (= đạo đức) sống nhân phẩm của mình cho đúng với Đạo
- Nhân. Khi người Việt nói làm việc nghĩa, hoặc nói nghĩa làm người,
chữ nghĩa đó không có cùng nội dung với chữ nghĩa trong câu nầy: Cái bàn
nghĩa là gì?
Từ ý thức nghĩa làm người,
dân Việt Nam đã anh dũng đẩy lui, tố giác... những hành vi bạo ngược vi phạm đến
tự do và sự sống an bình của đồng bào họ. Và chưa có ai, sử gia nào Việt Nam, dám
viết rằng những năm tháng bị ngoại bang đô hộ, vua quan hà hiếp dân chúng... dầu
có ổn định bên ngoài từng trăm năm, là những năm tháng hòa bình cả.
Vì tự thâm sâu nơi tâm hồn
người Việt Nam, hòa bình chân thật là nỗ lực xây dựng con người và xã hội trong
Đạo lý, một nền hòa bình vốn không phải do bất cứ ai, bất cứ phe nào suy nghĩ
ra và áp đặt theo sở thích của mình. Nhưng hòa bình chân thật trong khuôn khổ
Trung và Hòa của Nho học có căn nguồn vững
bền nơi Tâm Duy Vi, xuất phát từ đáy lòng của mỗi người.
[1] “Trung dã giả, thiên
hạ chi đại bản dã, hòa giả thiên hạ chi đạt Đạo dã” (Trung
Dung , Chương I)
[2] “Bất thiên chị vị Trung” (Trung
Dung , Dẫn nhập)
[3] “Đạo bất khả tu du lỵ
dã” (Trung Dung , Chương I)
[4] “Hỷ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi Trung”
( D, Chương I)
[5] “Nhân tâm duy nguy;
đạo tâm duy vi.
Duy tinh duy nhất, doản chấp quyết Trung.”
(III Đại Vũ Mô, 15)
[6] “ Phát nhi dai trúng
tiết, vị chi Hòa.” (K. Thư, Chương I)
[7] “Đạo kỳ bất hành hỷ
phù!” (TD ch.4)
[8] “Thị tri kỳ bất khả
nhi vi chi giả dư?” (Luận ngữ, Hiến
vấn XIV, 41)
[9] “Dục khiết kỳ thân,
nhi loạn đại luân! Quân tử chi sĩ dã, hành ký nghĩa dã. Đạo nhi bất hành, dĩ
tri chi hỷ!” (Luận ngữ, Vi tử
XVIII, 7)
[10] “Dử thiên địa tương
tợ, cố bất vi; Trí chu hồ vạn vật nhi đạo tế thiên hạ, cố bất quá; Bàng hành
nhi bất lưu; Lạc thiên tri mệnh, cố bất ưu; An thổ đôn hồ nhân, cố năng ái.” (Hệ
tử Thượng truyện, chương 4, tiết 3)
[11] Nếu phải chiết tự để minh giải ý nghĩa, thì chữ nhân gồm
chữ nhân đứng (= là người) với hai gạch ngang (tương trưng đất - trời, tượng
trưng cho hai người gâén nhau), gợi lên nội dung tương đương với ý nghĩa chữ
vương trong vương đạo. Tương quan nầy là sự sống linh ư vạn vật của nhân tính
toàn diện.
[12] Humanité selon les humanismes modernes
[13] “Phàn trì vấn nhân: Tử viết: ‘Ái nhân... (Luận ngữ,
Nhan Uyên XII, 22)
[14] “Kỳ thứ hồ! Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân” (Luận ngữ, Vệ
Linh Công XV, 23)
[15] “Hà sự ư nhân? tất dã thánh hồ? Nghiêu Thuấn
kỳ do bệnh chư? Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân.
Năng cận thủ thí, khả vị nhân chi phương dã hỉ!” (LN- Ung Dã VI, 28)
[16] “Khắc kỷ phục lễ vi nhân” (LN Nhan Uyên XII,1)
[17] “Tu kỷ dĩ kính” (LN, Hiến vấn XIV, 45)
[18] “Phù lễ, tiên vương
dĩ thừa thiên chi đạo, dĩ tự nhân chi
tính.” (Lễ ký, Lễ vận IX)
[19] “Lễ chi giáo hóa giã
vi, kỳ chỉ tà giã ư vi hình, sử nhân nhật tể thiện, viễn tội, nhi bất tư tri
giã” (Lễ ký, Kinh giải XXXI)
[20] “Lễ hồ, lễ hồ, sở dĩ
chế trung giã” (Lễ ký, Ai Công Vấn
XXVIII)
[21] “Tử viết: nhân nhi bất
nhân, như lễ hà?” (Luận ngữ; Bát
dật III, 3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét